Đột phá hay chạy tội In
Thứ tư, 15 Tháng 12 2010 16:32

(Thứ ba ,  16/12/2008, 10:50)

Sau cuộc Hội thảo “Chúa Nguyễn và  triều Nguyễn” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức quy mô ở Thanh Hóa, dư luận xã hội quan tâm, vì có nhiều cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài) quảng bá rộng rãi cốt gây sự chú ý trong dân chúng. Vấn đề đã quá cũ, nay “hâm nóng” lại thì phải có “thủ pháp” làm sao cho nổi bật. Có tờ báo đưa tít giật gân: “Đột phá(?) trong nhận thức về Chúa Nguyễn, triều Nguyễn”. “Đột phá” kiểu gì trong khi vấn đề đã rõ gần hai trăm năm nay?

Ông Tương Lai đánh lừa dư luận trên Tuần Việt Nam Net 10-7-2008 như sau: “Một khi cái giả biến thành cái thật được đem rao giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào axít gặåm nhấm tâm hồn họ, sự thật lịch sử bị vùi lấp, xuyên tạc bởi bất kỳ lý do nào cũng làm giảm sút, nao núng lòng tin, lòng tự hào về lịch sử dân tộc của lớp trẻ - chất xi măng kết dính những tâm hồn Việt Nam. Nhìn lại lịch sử triều Nguyễn chính là cách Việt Nam nâng cao bản lĩnh dân tộc (?) lựa chọn văn hóa, giải quyết bi kịch lịch sử”. Cái “bi kịch lịch sử” mà ông Tương Lai muốn nói là cái bi kịch nào? Phải chăng chính là cái “bi kịch” của ông GS NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - đã nêu rõ trong báo cáo đề dẫn cuộc hội thảo: “Sau Cách mạng Tháng 8 - 1945 cho đến năm 1975 trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lượng các công trình nghiên cứu chuyên đề không nhiều. Nhưng chính trong bối cảnh này đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt các Chúa Nguyễn cũng như các Chúa Trịnh và đặc biệt là vương triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn Sử Địa, Đại học Sư phạm, Nghiên cứu lịch sử và biểu thị tập trung trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng Việt Nam...
Thái độ phê phán gay gắt trên có nguyên do sâu xa trong bối cảnh chính trị của đất nước thời bấy giờ và trong cách vận dụng những phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu.
Quan điểm trên nảy sinh, xác lập trong những năm từ 1954 - 1956 và phát triển mạnh cho đến những năm 1970 của thế kỷ XX. Đó là thời kỳ cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ hành động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất đều bị phê phán. Cuộc tranh luận về cuộc thống nhất đất nước thời Tây Sơn và nhà Nguyễn cũng tiến hành trong không khí chính trị đó và đã xuất hiện quan điểm cực đoan cho rằng Tây Sơn đã hoàn thành, thậm chí hoàn thành triệt để khôi phục quốc gia thống nhất. Bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh đã tác động đến thái độ của nhiều nhà sử học trong nhìn nhận và đánh giá về các Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn”.
Đặc biệt, đoạn văn sau này của ông Phan Huy Lê đã bộc lộ quan điểm của ông là: “Nguyên nhân về vận dụng phương pháp luận là thuộc về trách nhiệm của các nhà sử học. Đây là thời kỳ nền sử học hiện đại xây dựng trên hệ tư tưởng Mác-xít đang hình thành và trong vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, công thức máy móc”.
Ở một đoạn khác ông viết: “Áp dụng hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai cấp một cách giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa ra những phân tích và đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử. Không riêng các Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn mà những nhân vật lịch sử liên quan, và rộng ra khắp cả vương triều Mạc trước đó, đều bị đánh giá theo quan điểm chưa được khách quan công bằng như vậy”.
Sau khi cuộc hội thảo kết thúc, ông Phan Huy Lê còn tuyên bố với báo chí hết sức chủ quan: “...Cuộc hội thảo lần này đã nhận được hưởng ứng rộng rãi không chỉ của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội”. Vâng, sự hưởng ứng rộng rãi dư luận xã hội mà giáo sư Phan Huy Lê nói, đó là những bài báo của các tác giả như giáo sư Trần Thanh Đạm, nhà viết kịch Trường Sinh, nhà nghiên cứu Đặng Trần Nguyên đăng trên tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh (số 41, 42, 43, 44, 45 tháng 11-2008) phản bác lại những luận điểm của ông và ông Tương Lai, cũng như tham luận của một số người cùng quan điểm với ông trong hội thảo.
Không phải đợi đến cuộc hội thảo mà Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ở Thanh Hóa do GS Phan Huy Lê chủ trì mới đây đòi đánh giá và nhìn nhận lại lịch sử, mà hàng trăm năm qua từ lúc Gia Long lên ngôi (năm 1802) đến ông vua cuối cùng Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng (tháng 8-1945) kết thúc vương triều Nguyễn, nhân dân ta ngay từ thời Gia Long, Tự Đức, đã nhìn nhận lịch sử một cách khách quan, công bằng. Bằng những lời buộc tội không thể chối cãi như “Gia Long rước voi về giày mả tổ”, “Gia Long cõng rắn cắn gà nhà”, “Phan Lâm mãi quốc - Triều đình khí dân”, “Thà thua xuống láng xuống bưng réo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần”, “Thà đui mà giữ đạo nhà/Còn hơn có mắt ông cha không thờ”..., nhân dân ta thời ấy chỉ tập trung lên án Gia Long và Tự Đức chớ không một ai lên án cả vương triều Nguyễn. Trái lại, họ còn ca ngợi những ông vua yêu nước chống Pháp bị Pháp bắt bớ tù đày như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Vậy mà đến nay GS Phan Huy Lê - tờ Vietnamnet ngày 19-10-2008, báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 20-10-2008 đưa tin - trong ý kiến trả lời phỏng vấn, ông ta đã nói: “Việc Nguyễn Ánh đưa quân Xiêm vào trong cuộc chiến chống Tây Sơn, trước đây có người lên án là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”, là “bán nước”. Đó là quan điểm cực đoan”. GS còn biện minh: “Việc cầu viện không phải là sai lầm. Việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử”. Ông muốn nói đến Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh kéo quân qua đánh Tây Sơn để bảo vệ cái ngai vàng nhà Lê chăng? Và kết quả cuộc cầu viện đó thế nào chắc ông  biết rõ, cũng như ông biết rõ hơn ai hết năm vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện đã bị Nguyễn Huệ tiêu diệt trong trận Rạch Gầm, Xoài Mút năm 1785. Chiến thắng oanh liệt đó của Tây Sơn đã có sự tham gia tích cực của nhân dân Nam Kỳ thời ấy nên không có tên giặc nào chạy thoát. Ông Lê còn cố nói thêm: “Đó chỉ là hành động không sáng, một tì vết trong sự nghiệp Gia Long”.
Đưa quân giặc về giày xéo đất nước, đốt nhà, cướp của, hãm hiếp dân thường mà cho là “hành động không sáng”, là “tì vết trong sự nghiệp Gia Long” thì quả là ngụy biện của một nhà sử học. Nếu Gia Long còn sống, hẳn ông Lê sẽ được trọng thưởng vì có công “chạy tội” bán nước cho ông ta.

Theo lập luận của GS Phan Huy Lê và những người theo quan điểm của ông thì sau Cách mạng tháng 8 “từ năm 1945 đến 1975 xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt các chúa Nguyễn cũng như các chúa Trịnh và đặc biệt là vương triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1954... (Bản đề dẫn trong cuộc hội thảo Thanh Hóa). Thật không thể hiểu nổi một ông Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam lại có thể mạnh bạo kết luận như vậy. Lẽ nào ông không biết rằng trong lúc đi tìm đường cứu

nước, Nguyễn Ái Quốc ở Paris năm 1919 - đã công khai phê phán vương triều Nguyễn trên trận địa báo chí cách mạng (cần chú ý Nguyễn Ái Quốc chỉ phê phán gay gắt vương triều Nguyễn chứ không phê phán các chúa Nguyễn. Đó là thái độ công bằng với lịch sử). Sự phê phán đó đã được tiến hành một cách kiên định và liên tục kéo dài suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1922, Khải Định được thực dân Pháp đưa sang dự hội chợ ở Marseille nước Pháp, thì Nguyễn Ái Quốc viết vở kịch Con rồng tre đả kích tên vua bù nhìn này và chế độ cai trị của thực dân Pháp. Được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp và những người tiến bộ, vở kịch Con rồng tre được diễn ở Câu lạc bộ ngoại ô Paris (Club de Faubourg) gây được tiếng vang lớn trong dư luận Pháp lúc bấy giờ. Ngoài Con rồng tre, Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài báo khác đả kích mạnh mẽ vua quan bù nhìn Huế và chế độ thống trị hà khắc, mị dân của thực dân Pháp. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc viết quyển Bản án chế độ thực dân Pháp, một lần nữa được dư luận hết sức chú ý - nhất là các dân tộc bị thực dân đế quốc thống trị - và lúc ấy không ai nghĩ chỉ 31 năm sau (1923 - 1954) bản án đó được thi hành bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chôn vùi chủ nghĩa thực dân cũ, không riêng ở Việt Nam, mà trên quy mô toàn thế giới.

Trong báo cáo gởi Quốc tế Cộng sản ngày 21-9-1923, Nguyễn Ái Quốc viết: Triều đình và vua quan (nhà Nguyễn) lệ thuộc tuyệt đối vào chính quyền Pháp. Họ bị Pháp khinh bỉ và nhân dân oán ghét.

Sau này về nước hoạt động (tháng 2-1941) trong bài “Dân ta nên học sử ta”, Nguyễn Ái Quốc lúc này mang tên Hồ Chí Minh viết trên báo Việt Nam Độc lập ngày 1-12-1942: Trước khi vua Gia Long bán nước cho Tây, nước ta vẫn là một nước độc lập. Và vì muốn giành quyền làm vua mà Gia Long đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang sơn gấm vóc tan tác tiêu điều, con cháu Lạc Hồng làm trâu ngựa.

Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với lịch sử là rất sòng phẳng, phân minh. Người không hề công kích các chúa Nguyễn. Đối với vương triều Nguyễn, Người chỉ lên án Gia Long và Tự Đức. Còn đối với vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Người từng viết bài trên báo chí nước ngoài đề cao tinh thần yêu nước chống Pháp của ba vị vua đó. Trong báo cáo gởi Quốc tế Cộng sản ngày 22-7-1940, Người viết: Năm 1855, vua Hàm Nghi và năm 1916 vua Duy Tân đã đứng ra lãnh đạo nhân dân chống Pháp. Một sự kiện rất lý thú là ngày 24-2-1920, Nguyễn Ái Quốc ở Paris đã nhận được thư của hoàng thân Vĩnh San (vua Duy Tân) gởi cho chủ nhiệm báo “Nhân Đạo” (L’humanité) Đảng Cộng sản Pháp về việc đòi độc lập cho Việt Nam. Trung tuần tháng 3-1920, Nguyễn Ái Quốc đã gặp hai đồng chí Marcel Cachin, Jean Longuet và báo Nhân Đạo đã mời Nguyễn Ái Quốc đến trụ sở báo để bàn về vấn đề này. Như vậy là đã rõ: Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trước sau như một: đối với lịch sử là rất công bằng, sòng phẳng, công tội phân minh, không vơ đũa cả nắm.
Quan điểm chính thống của Bác Hồ và của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đánh giá vương triều nhà Nguyễn đã và đang bị một số người cố tình xuyên tạc, phản bác. Họ muốn gì? Phải chăng họ muốn lau sạch vết nhơ tội lỗi tày đình trên khuôn mặt những ông vua bán nước Gia Long, Tự Đức (thế kỷ 19), Khải Định, Bảo Đại (thế kỷ 20) mà lịch sử đã khắc sâu, tô đậm từ hai thế kỷ trước? Và trong việc phê phán những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, công thức, máy móc đối với lịch sử, họ nhằm vào mục đích gì? Phải chăng họ muốn phản bác, phủ nhận quan điểm chính thống của tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đánh giá các nhân vật lịch sử vương triều Nguyễn, nhất là đối với Gia Long, Tự Đức? Họ đã lầm! Không ai bài bác, bôi nhọ thanh danh các chúa Nguyễn. Cũng chẳng có ai phủ nhận sự đóng góp của vương triều Nguyễn trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa và nghệ thuật... đã được nhân dân và lịch sử ghi nhận. Thành ngữ Pháp có câu: Đừng gõ vào cánh cửa đã mở toang rồi. Ông Tương Lai, với những luận điểm ngụy biện “chạy tội” kểí trên, không một công dân Việt Nam yêu nước nào - ở trong nước hay ở hải ngoại - chấp nhận được.
Vũ Hạnh - Dương Linh

 

http://www.congan.com.vn/van_de_hom_nay/2008/12/20081217.00850.html