Khoa Ngữ Văn
  
nghiên cứu khoa học
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CA DAO - DÂN CA NAM BỘ (PGS.TSKH. Bùi Mạnh Nhị) PDF. In Email
Thứ hai, 18 Tháng 10 2021 13:22

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ

CA DAO - DÂN CA NAM BỘ

PGS. TSKH. BÙI MẠNH NHỊ (*)

Ca dao là “Thơ của mọi nhà” (Xuân Diệu). Ca dao Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung, là những tượng đài bất hủ về tâm hồn, trái tim, tài năng của nhân dân. Ngôn ngữ của ca dao - dân ca là lời đề tựa rất sinh động cho tư duy, tâm hồn, ngôn ngữ của nhân dân các miền trên Tổ quốc. Ca dao - dân ca Nam Bộ đã góp phần nuôi dưỡng những nhà thơ Đồng Nai – Gia Định như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp, những nghệ sĩ tài danh của âm nhạc truyền thống như Trần Văn Khê, Cao Văn Lầu, Nguyễn Vĩnh Bảo. “Ca dao tự vạch cho mình một lối đi, dẫu không hào nhoáng song hết sức hiên ngang, hết sức độc lập” (Thuần Phong).

1. Cha ông chúng ta mới khám phá, xây dựng mảnh đất Nam Bộ trong vòng hơn ba thế kỉ nay. Ca dao - dân ca Nam Bộ, tất nhiên cũng mới chỉ thực sự được hình thành và khởi sắc trong quãng thời gian ấy. Diện mạo ngôn ngữ ca dao - dân ca Nam Bộ là một quá trình hội tụ, phát huy những truyền thống của ngôn ngữ ca dao - dân ca dân tộc mà cha ông từ các miền ngoài “gồng gánh”mang vào, đồng thời là quá trình sáng tạo liên tục trước những đòi hỏi của cuộc sống ở mọi hoàn cảnh, mọi mục đích giao tiếp không ngừng thay đổi.

Để tạo nên diện mạo đó, nhân dân đã, một mặt, sử dụng kho tàng ngôn ngữ sẵn có của ca dao - dân ca dân tộc; mặt khác, biến đổi không ít từ ngữ, câu ca và sáng tạo rất nhiều bài ca mới, từ ngữ mới. Do đó trong vốn từ ngữ mà ca dao - dân ca Nam Bộ sử dụng, bên cạnh kho từ ngữ giàu có được phổ biến khắp cả nước, là sự có mặt của những từ ngữ nảy sinh tại địa phương. Đó là những từ ngữ làm tên gọi cho các sự vật, sản vật mới, những từ ngữ biểu hiện các sắc thái tình cảm khác nhau của con người nảy sinh trong bối cảnh tự nhiên và xã hội mới. Trong quá trình giao lưu với các miền, một bộ phận trong số này đã và sẽ được phổ biến rộng rãi, một bộ phận khác vẫn giữ nguyên tính chất của phương ngữ. Do hoàn cảnh lịch sử, sự giao lưu văn hoá giữa các miền trên Tổ quốc trong quá khứ chủ yếu là con đường từ các miền ngoài đi vào. Đất nước đã thống nhất, chắc chắn sự giao lưu văn hoá từ Nam Bộ trở ra các miền ngoài sẽ phát triển mạnh hơn, rộng và sâu hơn, trong tình cảm mong mỏi của nhân dân cả nước.

2. Nam Bộ, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều cái nhấtđồng bằng lớn nhất nước; sản lượng lúa gạo nhiều nhất nướckinh rạch nhiều nhất nướctrái cây nhiều nhất nướcdiện tích nuôi trồng thủy sản lớn nhất nướclượng thủy hải sản thu được hàng năm cũng nhiều nhất nướcdiện tích rừng ngập mặn nhiều nhất nước… Cuộc sống của người dân Nam Bộ gắn bó máu thịt với hệ thống sông ngòi dọc ngang chằng chịt của khoảng 5.000 km đường kinh rạch, với những cánh đồng mênh mông của đồng bằng châu thổ Cửu Long, mang tầm của những đồng bằng rộng lớn, đặc biệt của thế giới, và với những miệt vườn phì nhiêu, màu xanh trải tràn, rậm rì cây trái. Nhiều nhà nghiên cứu đã dùng định danh “văn minh sông rạch”, và nhà văn Sơn Nam dùng định danh “văn minh miệt vườn” để nói về cảnh quan  sinh thái – nhân văn và cuộc sống của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Con số thống kê sau về “chợ nổi” - chợ họp trên sông, “thương cảng dân gian”độc đáo, nơi buôn bán không chỉ lúa gạo, tôm cá, mà cả các loại trái cây và hoa, cho thấy thêm điều đặc biệt của Nam Bộ: Tiền Giang có 160 chợ nổi, Bến Tre có 175, Đồng Tháp 203 và Trà Vinh có 110 chợ nổi. Sử sách viết về tự nhiên và sự giàu có của Nam Bộ không thể thiếu những trang về cảnh quan nổi bật, đặc sắc đó cùng với những chủ nhân của nó. Kinh rạchruộng đồngmiệt vườn - ba bối cảnh tiêu biểu của thiên nhiên và cuộc sống người dân Nam Bộ cũng là ba bối cảnh mà ca dao - dân ca Nam Bộ thường bộc lộ những đặc điểm ngôn ngữ của mình.

3. Người nông dân truyền thống, như C. Mác nhận xét, “trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội”(1). Cụ Hipprocrates (460?-377 Trước Công nguyên) cũng đã nói: “Nông gia giỏi không chống lại thiên nhiên, anh ta cùng làm việc với thiên nhiên để làm ra nông sản” và những sản phẩm tinh thần. Nền thi ca của họ, cũng giống như bản thân họ, luôn thở hít trong thiên nhiên tươi mát, sống động. Nhân dân luôn lấy những cảnh vật thân thuộc quanh mình để phô bày tâm sự.

Ở Bắc Bộ, những hình ảnh tiêu biểu làm nên gương mặt của nông thôn cổ truyền – cây đa, bến nước, mái đình, luỹ tre, cổng làng… rất hay được nhắc tới trong các bài ca. Câu hát Trung Bộ trùng điệp hình ảnh của núi non, rừng rú, mênh mông và dữ dằn hình ảnh của biển cả… Trong ca dao - dân ca Nam Bộ, hình ảnh ghe xuồng, sông rạch, tôm cá xuất hiện với tần số rất cao. Nét độc đáo này biểu hiện ở những bài ca thuộc mọi chủ đề. Chuyện với mình hay chuyện với người, nhân vật trữ tình thường mượn hình ảnh trung gian - sông nước và ghe xuồng, tôm, cá:

Đọc thêm...
 
TỪ CHÂN DUNG THỊ NỞ BÀN VỀ TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG Ý THỨC TRÀO PHÚNG NAM CAO PDF. In Email
Thứ hai, 29 Tháng 6 2020 02:43

TỪ CHÂN DUNG THỊ NỞ

BÀN VỀ TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG Ý THỨC TRÀO PHÚNG NAM CAO (*)

PHẠM NGỌC LAN (**)

1.         Vui nhộn và kinh hoàng

“[...] nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ người” (Nam Cao, 45).

Nếu hai má Thị Nở phinh phính, thì thị có thể "còn được" một nhan sắc hao hao với lợn - phép so sánh này có thể coi là hạ thấp, thậm chí sỉ nhục phẩm giá một phụ nữ như thị. Nhưng cái "mặt lợn" ấy lại được gắn trên "cổ người", thậm chí "nhiều hơn ta tưởng" - nghĩa là nếu Thị Nở có nhan sắc hao hao với lợn, thì thị sẽ gần với con người hơn. Nhưng vì thị thậm chí còn không giống lợn, nên thị càng không giống người.

Đằng sau tiếng cười của chúng ta trước sự méo mó của chân dung Thị Nở, thật sự lại là nỗi kinh hoàng trước sự méo mó của chính cái chân dung con người mà ta vẫn hằng coi là tinh hoa của vũ trụ. Gương mặt Thị Nở, Chí Phèo, mụ Lợi, Lang Rận, Trạch Văn Đoành... những bức chân dung biến dạng, xệch xạc, quái dị như chính cái bóng của Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải chỉ vì sự hài hước ngộ nghĩnh một cách "phi nhân tính" của nó, mà đúng hơn, vì nó hàm chứa một nỗi lo âu, sợ hãi, một sự bất lực và bất an khi ta bắt đầu hoài nghi ngược lại chính cái "nhân tính" nơi chúng ta.

Vui nhộn và kinh hoàng, hài hước và bất lực, những bức chân dung của Nam Cao phản ánh một thực tại rối loạn, đầy những ám ảnh bạo lực, quay cuồng giữa những giá trị và phản giá trị. Và bên cạnh đó, là một tiếng nói trào phúng đã mang những nét hoàn toàn khác biệt so với diện mạo chung của văn chương Việt Nam giai đoạn 1930-1945: không dừng lại ở hình thức hiện đại, ngôn ngữ hiện đại, mà đã tiếp cận với tư duy và ý thức văn xuôi hiện đại (phần nào tiệm cận với chủ nghĩa hiện đại và phổ quát hơn so với tính Pháp - đặc trưng vẫn thường được coi là chuẩn mực của tính hiện đại trong văn chương thời kỳ này).

Bài viết này khảo sát hai đặc trưng hài hước đen và nghịch dị, vốn được Nam Cao sử dụng nhiều nhất trong các chân dung trào phúng của mình, cụ thể qua trường hợp chân dung Thị Nở, để làm rõ những vấn đề nói trên của ý thức trào phúng Nam Cao trong tương quan với văn xuôi trào phúng 30-45 nói riêng và với nghệ thuật trào phúng Việt Nam nói chung.

2.         Lịch sử trào phúng VN và nền tảng đạo đức - triết học của tiếng cười trào lộng

Trào phúng không phải là một truyền thống được coi là dày dặn trong văn chương và nghệ thuật Việt Nam. Trong văn học dân gian có thể kể đến truyện cười, ca dao trào phúng và một số trích đoạn chèo - trong đó tiếng cười thường khá đơn giản, một chiều và thiên về tính hề tếu (tạm hiểu là thiên về những biểu hiện, trò diễn gây cười bằng ngôn ngữ, điệu bộ, hành vi lố bịch, khác chuẩn). Trong văn học trung đại, dòng văn học viết bằng chữ Hán hầu như không xuất hiện yếu tố trào phúng, có lẽ do tính chính thống, nghiêm túc và khoa cử của nó. Những tác phẩm trào phúng nổi bật nhất của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và Tú Xương chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm, thứ văn tự phi chính thống, và thường được xếp vào "chiếu nhì" so với sáng tác chữ Hán, thậm chí thường chỉ được viết khi tác giả đã cách ly và bất mãn sâu sắc với tư tưởng hoặc biểu hiện của tư tưởng chính thống.

Văn chương trào phúng thật sự trở thành một dòng chính trong văn chương Việt nam kể từ những năm 1930, với sự xuất hiện của một nhóm các nhà văn hiện thực: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Ngoài ra có đóng góp của các nhà văn, nhà báo ở tờ báo trào phúng Việt ngữ đầu tiên: Phong hoá (Nhất Linh, Tú Mỡ, Thế Lữ...).

Chịu ảnh hưởng của lý thuyết Marxist về đấu tranh xã hội, nhiều nhà lý luận phê bình Việt Nam có xu hướng coi văn chương trào phúng nói riêng và nghệ thuật trào phúng nói chung là một vũ khí đấu tranh hiệu quả, được sử dụng triệt để nhằm đả phá những thói hư tật xấu hoặc những biểu hiện suy đồi đạo đức, nhất là ở giai cấp thống trị. Tiếng cười, như thế, được coi là một công cụ xã hội hơn là một giá trị nghệ thuật.

Cách tiếp cận này không phải không hiệu quả: nó giải thích được một loạt những hiện tượng trào phúng trong lịch sử văn học Việt Nam từ dân gian đến hiện đại. Đồng thời nó đưa đến sự hình thành của một thể loại trình diễn khá đặc biệt trong thời chiến: thể loại tấu - trong đó đối tượng trào phúng duy nhất là "phe địch".

Theo đó, có thể chỉ ra cơ cấu chính để gây cười trong nghệ thuật trào phúng:

Thứ nhất, đối tượng bị cười thường nhất thiết phải là một sự vi phạm chuẩn mực đạo đức triết lý nào đó, một chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận rộng rãi. Chẳng hạn thầy bói để số mình "cho ruồi nó bu", thầy đồ dạy chữ "tam đại con gà" hay những "thằng ngọng đứng xem chuông" và làm thơ "ấy ái uông". Đôi khi để đả phá một đối tượng, tác giả dựa trên nền tảng đạo đức, triết lý đối lập với nền tảng đạo đức hay triết lý mà đối tượng bị đả kích thể hiện. Khi Hồ Xuân Hương cười bậc quân tử "dùng dằng đi chẳng dứt" trước cô gái ngủ ngày "yếm đào trễ xuống dưới nương long", dĩ nhiên bà đả phá hệ hình đạo đức quân tử Khổng giáo vốn đặt chữ Lễ cao hơn những cảm xúc tự nhiên bản năng của con người. Khi đó, bà đứng trên một hệ hình đạo đức khác - đạo đức hồn nhiên trong sáng và chân thực của dân gian để phản đối những hệ hình chống lại nó.

Thứ hai, khi tác giả và người đọc chúng ta cất tiếng cười, ta tự tách mình ra khỏi đối tượng trào phúng, người cười tự đặt mình ở vị thế cao hơn đối tượng bị cười. Nói như Umberto Eco, "Cái hề tếu (comic) bao giờ cũng có tính phân biệt chủng tộc: chỉ có những kẻ khác ta, những kẻ mọi rợ, mới phải trả giá thôi" (Eco, 2)

Đọc thêm...
 
Hội thảo khoa học Quốc tế Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam PDF. In Email
Thứ năm, 25 Tháng 6 2020 08:45

 

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN VĂN HỌC

----------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------------------------

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2020

 

THÔNG BÁO

(v/v thay đổi ngày tổ chức

Hội thảo khoa học Quốc tế)

 

 

Ban Tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam xin trân trọng thông báo:

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thời gian tổ chức Hội thảo sẽ được chuyển sang đầu tháng 12/2020. Hội thảo sẽ được tổ chức tại Trường Đại học Văn Lang (69/68 Đặng Thùy Trâm, Phường 13, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh).

Để đảm bảo chất lượng khoa học và tạo điều kiện thêm cho các tác giả tham gia hội thảo, Ban Tổ chức xin điều chỉnh các mốc nhận bài như sau:

- Thời hạn nhận đăng ký tóm tắt: 30/6/2020 (Thư mời viết bài và Mẫu đăng ký viết bài xin gửi kèm theo)

- Thời hạn nhận bài viết toàn văn: 30/9/2020

Bài đăng ký và toàn văn tham luận xin gửi file về qua hộp thư: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. .

Ban Tổ chức Hội thảo rất mong nhận được sự quan tâm và bài viết của quý học giả, các nhà nghiên cứu.

Xin trân trọng!

 

 

T.M. BAN TỔ CHỨC

Trưởng ban

Viện trưởng Viện Văn học

 

 

PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VLU

VIỆN VĂN HỌC

 

ĐẠI HỌC VĂN LANG

THƯ MỜI ĐĂNG KÝ VIẾT BÀI

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam

Kính gửi: Các quý vị học giả, các nhà nghiên cứu

Phê bình văn học sinh thái, sau những bước phát triển ở Âu - Mỹ đã mở rộng đến nhiều khu vực của châu Á (Trung Quốc, các quốc gia Đông Bắc Á và Đông Nam Á…) và ngày càng chiếm được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học. Về bản chất, đây là hướng nghiên cứu liên ngành, có khả năng kết nối học thuật toàn cầu-khu vực, gia tăng tương tác giữa nghiên cứu hàn lâm với các vấn đề thực tiễn của xã hội và các cơ sở đào tạo đại học theo hướng ứng dụng… Trong điều kiện môi sinh ở Việt Nam đang có những  biến đổi đáng lo ngại, khi mà việc dẫn nhập phê bình sinh thái nói chung và phê bình văn học sinh thái nói riêng đang ở giai đoạn khởi đầu, mối quan tâm đến vấn đề này từ giới học thuật, giới sáng tác và giáo dục cũng chưa liên tục thì việc đưa vấn đề môi sinh trong ngữ cảnh văn hoá, văn chương Việt Nam thành một chủ điểm thảo luận chuyên sâu hứa hẹn sẽ có giá trị kích thích đa chiều và mạnh mẽ. Văn học Việt Nam nói chung và văn học Nam Bộ nói riêng có những sáng tác gây chú ý mang chủ đề sinh thái sâu sắc. Chất liệu đó cần có những thảo luận kỹ càng, và từ những thảo luận đó, dữ liệu thu được có thể tham gia vào những luận giải lý thuyết về sinh thái, đặc biệt là hình thành đạo đức sinh thái trên tinh thần nhân văn hiện đại. Với những ý nghĩa trên, Viện Văn học (thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) phối hợp với Đại học Văn Lang đồng tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế “Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam”. Hội thảo dự kiến diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2020, tại Tp. Hồ Chí Minh.

Hội thảo kỳ vọng sẽ là cơ hội để thúc đẩy phát triển của nghiên cứu văn học nói riêng và khoa học xã hội nhân văn nói chung ở Việt Nam, mà kết quả của nó là căn cứ học thuật để Viện Văn học, Đại học Văn Lang trở thành địa chỉ kết nối các nghiên cứu văn học mới theo hướng liên ngành và hội nhập quốc tế.

1. Chủ đề Hội thảo

Hội thảo tập trung vào ba nội dung chính:

1/diễn tiến của phê bình sinh thái trong thời gian gần đây trên thế giới và Việt Nam;

2/thực tiễn nghiên cứu văn học sinh thái ở/ về khu vực Nam Bộ - Việt Nam;

3/cơ hội và khả năng ứng dụng của phê bình sinh thái ở Nam Bộ và các vùng địa lý nhân văn trong cả nước.

Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học có thể tham gia hội thảo theo các chủ đề sau đây:

- Thông qua phân tích các văn bản văn chương, lịch sử, tôn giáo, triết học, khảo cổ… thảo luận về phương thức và mức độ ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng hiện đại và hậu hiện đại đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, sự can dự của các thiết chế xã hội ở Việt Nam và thế giới đến ứng xử của con người với môi trường sinh thái ở Nam Bộ nói riêng và ở Việt Nam cũng như ở các khu vực, quốc gia khác nói chung.

- Văn chương đã thể hiện, phản ứng và gợi ý cách thức giải quyết ra sao trước những hiểm hoạ sinh thái ở Nam Bộ, Việt Nam và thế giới, từ đó xem xét khả năng, bổn phận và mức độ ảnh hưởng của văn chương đối với vấn đề này.

- Thực tiễn và khả năng tương tác giữa các loại hình văn bản như tác phẩm văn chương, điện ảnh, phim tài liệu phóng sự, nghệ thuật trình diễn,… về chủ đề sinh thái; thực tiễn và khả năng tương tác giữa văn chương nghệ thuật với giáo dục và truyền thông về sinh thái.

- Mối quan tâm sinh thái trong tương quan với các vấn đề thời đại ở những giai đoạn lịch sử khác nhau của Việt Nam và thế giới được thể hiện ra sao trong văn chương.

- Thông qua các nghiên cứu trường hợp đề xuất những kiến giải mới từ quan điểm phê bình sinh thái và đạo đức sinh thái.

2. Cơ quan đồng tổ chức:

- Viện Văn học

- Trường Đại học Văn Lang (thành phố Hồ Chí Minh)

3. Địa điểm, thời gian tổ chức:

- Địa điểm: Hội trường N2T1, cơ sở 3, Trường Đại học Văn Lang (69/68 Đặng Thùy Trâm, Phường 13, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh).

- Thời gian dự kiến: đầu tháng 12 năm 2020 (01 ngày).

4. Tiến độ Hội thảo:

- Thời gian nhận Đăng kí - Tóm tắt tham luận (bằng tiếng Việt và tiếng Anh): Chậm nhất là ngày 30/6/2020

(Mẫu Đăng kí tham luận và tóm tắt gửi kèm theo)

- Thời gian nhận toàn văn Tham luận: 30/9/2020

5. Ngôn ngữ sử dụng trong Hội thảo: Tiếng Việt, tiếng Anh (có phiên dịch)

6. Quy cách trình bày tham luận:

Tham luận viết bằng tiếng Việt, sử dụng mã chữ Unicode, font: Times New Roman, cỡ chữ 14, cách dòng đơn, độ dài không quá 15 trang A4. Các chú thích dùng chế độ footnotes tự động theo từng trang. Tài liệu tham khảo đặt ở cuối Tham luận.

Ban tổ chức không nhận các bài đã công bố và những bài không đáp ứng đúng quy cách trình bày văn bản.

7. Hỗ trợ Hội thảo:

Tham luận được lựa chọn sử dụng sẽ được trả nhuận bút và chọn in kỉ yếu Hội thảo.

Đại biểu tham dự Hội thảo tự túc kinh phí đi lại, lưu trú trong thời gian Hội thảo.

8. Địa chỉ liên hệ:

Mọi ý kiến, thông tin trao đổi, thủ tục đăng ký, bản Tóm tắt và Tham luận toàn văn xin được gửi đến địa chỉ sau:

Phòng Quản lí khoa học & Hợp tác quốc tế, Viện Văn học (Số 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. ).

Hoặc liên hệ qua số điện thoại: ThS. Vũ Thanh Loan: 0914968642, ThS. Nguyễn Lan Anh: 0988999009 (Viện Văn học), TS. Hồ Quốc Hùng: 0913701705 (Trường Đại học Văn Lang).

Ban tổ chức chỉ nhận Đăng kí - Tóm tắt, Tham luận toàn văn qua địa chỉ hòm thư điện tử.

Thông tin Hội thảo được đăng tải trên các website :

- Trường Đại học Văn Lang: http://www.vanlanguni.edu.vn

- Viện Văn học: http://vienvanhoc.vass.gov.vn

THAY MẶT BAN TỔ CHỨC

Trưởng ban

PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

 

 

 

 

 

 

 

VLU

VIỆN VĂN HỌC

 

ĐẠI HỌC VĂN LANG

BẢN ĐĂNG KÝ THAM LUẬN

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam

Họ và tên:............................................Giới tính..................................................

Học hàm, học vị:..................................................................................................

Cơ quan công tác:................................................................................................

Địa chỉ liên hệ (ghi rõ là địa chỉ nhà riêng hoặc cơ quan công tác):..................

Điện thoại:.................................. Hòm thư điện tử:.............................................

Số chứng minh thư nhân dân: ............................................................................

Tiêu đề của Tham luận:.......................................................................................

Tóm tắt tham luận (từ 300-500 chữ, sử dụng font Times New Roman) được trình bày bằng tiếng Việt và tiếng Anh dưới dạng file Word và gửi ở dạng file đính kèm trước ngày 30/6/2020 tới địa chỉ email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. ).

Ngày ......... tháng ......  năm …...

Ký tên

 

 

 
Hội thảo khoa học Quốc tế Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam PDF. In Email
Thứ năm, 25 Tháng 6 2020 08:45


VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN VĂN HỌC

----------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------------------------

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2020


THÔNG BÁO

(v/v thay đổi ngày tổ chức

Hội thảo khoa học Quốc tế)



Ban Tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam xin trân trọng thông báo:

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thời gian tổ chức Hội thảo sẽ được chuyển sang đầu tháng 12/2020. Hội thảo sẽ được tổ chức tại Trường Đại học Văn Lang (69/68 Đặng Thùy Trâm, Phường 13, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh).

Để đảm bảo chất lượng khoa học và tạo điều kiện thêm cho các tác giả tham gia hội thảo, Ban Tổ chức xin điều chỉnh các mốc nhận bài như sau:

- Thời hạn nhận đăng ký tóm tắt: 30/6/2020 (Thư mời viết bài và Mẫu đăng ký viết bài xin gửi kèm theo)

- Thời hạn nhận bài viết toàn văn: 30/9/2020

Bài đăng ký và toàn văn tham luận xin gửi file về qua hộp thư: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. .

Ban Tổ chức Hội thảo rất mong nhận được sự quan tâm và bài viết của quý học giả, các nhà nghiên cứu.

Xin trân trọng!



T.M. BAN TỔ CHỨC

Trưởng ban

Viện trưởng Viện Văn học



PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp













VLU

VIỆN VĂN HỌC


ĐẠI HỌC VĂN LANG

THƯ MỜI ĐĂNG KÝ VIẾT BÀI

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam

Kính gửi: Các quý vị học giả, các nhà nghiên cứu

Phê bình văn học sinh thái, sau những bước phát triển ở Âu - Mỹ đã mở rộng đến nhiều khu vực của châu Á (Trung Quốc, các quốc gia Đông Bắc Á và Đông Nam Á…) và ngày càng chiếm được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học. Về bản chất, đây là hướng nghiên cứu liên ngành, có khả năng kết nối học thuật toàn cầu-khu vực, gia tăng tương tác giữa nghiên cứu hàn lâm với các vấn đề thực tiễn của xã hội và các cơ sở đào tạo đại học theo hướng ứng dụng… Trong điều kiện môi sinh ở Việt Nam đang có những  biến đổi đáng lo ngại, khi mà việc dẫn nhập phê bình sinh thái nói chung và phê bình văn học sinh thái nói riêng đang ở giai đoạn khởi đầu, mối quan tâm đến vấn đề này từ giới học thuật, giới sáng tác và giáo dục cũng chưa liên tục thì việc đưa vấn đề môi sinh trong ngữ cảnh văn hoá, văn chương Việt Nam thành một chủ điểm thảo luận chuyên sâu hứa hẹn sẽ có giá trị kích thích đa chiều và mạnh mẽ. Văn học Việt Nam nói chung và văn học Nam Bộ nói riêng có những sáng tác gây chú ý mang chủ đề sinh thái sâu sắc. Chất liệu đó cần có những thảo luận kỹ càng, và từ những thảo luận đó, dữ liệu thu được có thể tham gia vào những luận giải lý thuyết về sinh thái, đặc biệt là hình thành đạo đức sinh thái trên tinh thần nhân văn hiện đại. Với những ý nghĩa trên, Viện Văn học (thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) phối hợp với Đại học Văn Lang đồng tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế “Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam”. Hội thảo dự kiến diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2020, tại Tp. Hồ Chí Minh.

Hội thảo kỳ vọng sẽ là cơ hội để thúc đẩy phát triển của nghiên cứu văn học nói riêng và khoa học xã hội nhân văn nói chung ở Việt Nam, mà kết quả của nó là căn cứ học thuật để Viện Văn học, Đại học Văn Lang trở thành địa chỉ kết nối các nghiên cứu văn học mới theo hướng liên ngành và hội nhập quốc tế.

1. Chủ đề Hội thảo

Hội thảo tập trung vào ba nội dung chính:

1/diễn tiến của phê bình sinh thái trong thời gian gần đây trên thế giới và Việt Nam;

2/thực tiễn nghiên cứu văn học sinh thái ở/ về khu vực Nam Bộ - Việt Nam;

3/cơ hội và khả năng ứng dụng của phê bình sinh thái ở Nam Bộ và các vùng địa lý nhân văn trong cả nước.

Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học có thể tham gia hội thảo theo các chủ đề sau đây:

- Thông qua phân tích các văn bản văn chương, lịch sử, tôn giáo, triết học, khảo cổ… thảo luận về phương thức và mức độ ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng hiện đại và hậu hiện đại đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, sự can dự của các thiết chế xã hội ở Việt Nam và thế giới đến ứng xử của con người với môi trường sinh thái ở Nam Bộ nói riêng và ở Việt Nam cũng như ở các khu vực, quốc gia khác nói chung.

- Văn chương đã thể hiện, phản ứng và gợi ý cách thức giải quyết ra sao trước những hiểm hoạ sinh thái ở Nam Bộ, Việt Nam và thế giới, từ đó xem xét khả năng, bổn phận và mức độ ảnh hưởng của văn chương đối với vấn đề này.

- Thực tiễn và khả năng tương tác giữa các loại hình văn bản như tác phẩm văn chương, điện ảnh, phim tài liệu phóng sự, nghệ thuật trình diễn,… về chủ đề sinh thái; thực tiễn và khả năng tương tác giữa văn chương nghệ thuật với giáo dục và truyền thông về sinh thái.

- Mối quan tâm sinh thái trong tương quan với các vấn đề thời đại ở những giai đoạn lịch sử khác nhau của Việt Nam và thế giới được thể hiện ra sao trong văn chương.

- Thông qua các nghiên cứu trường hợp đề xuất những kiến giải mới từ quan điểm phê bình sinh thái và đạo đức sinh thái.

2. Cơ quan đồng tổ chức:

- Viện Văn học

- Trường Đại học Văn Lang (thành phố Hồ Chí Minh)

3. Địa điểm, thời gian tổ chức:

- Địa điểm: Hội trường N2T1, cơ sở 3, Trường Đại học Văn Lang (69/68 Đặng Thùy Trâm, Phường 13, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh).

- Thời gian dự kiến: đầu tháng 12 năm 2020 (01 ngày).

4. Tiến độ Hội thảo:

- Thời gian nhận Đăng kí - Tóm tắt tham luận (bằng tiếng Việt và tiếng Anh): Chậm nhất là ngày 30/6/2020

(Mẫu Đăng kí tham luận và tóm tắt gửi kèm theo)

- Thời gian nhận toàn văn Tham luận: 30/9/2020

5. Ngôn ngữ sử dụng trong Hội thảo: Tiếng Việt, tiếng Anh (có phiên dịch)

6. Quy cách trình bày tham luận:

Tham luận viết bằng tiếng Việt, sử dụng mã chữ Unicode, font: Times New Roman, cỡ chữ 14, cách dòng đơn, độ dài không quá 15 trang A4. Các chú thích dùng chế độ footnotes tự động theo từng trang. Tài liệu tham khảo đặt ở cuối Tham luận.

Ban tổ chức không nhận các bài đã công bố và những bài không đáp ứng đúng quy cách trình bày văn bản.

7. Hỗ trợ Hội thảo:

Tham luận được lựa chọn sử dụng sẽ được trả nhuận bút và chọn in kỉ yếu Hội thảo.

Đại biểu tham dự Hội thảo tự túc kinh phí đi lại, lưu trú trong thời gian Hội thảo.

8. Địa chỉ liên hệ:

Mọi ý kiến, thông tin trao đổi, thủ tục đăng ký, bản Tóm tắt và Tham luận toàn văn xin được gửi đến địa chỉ sau:

Phòng Quản lí khoa học & Hợp tác quốc tế, Viện Văn học (Số 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. ).

Hoặc liên hệ qua số điện thoại: ThS. Vũ Thanh Loan: 0914968642, ThS. Nguyễn Lan Anh: 0988999009 (Viện Văn học), TS. Hồ Quốc Hùng: 0913701705 (Trường Đại học Văn Lang).

Ban tổ chức chỉ nhận Đăng kí - Tóm tắt, Tham luận toàn văn qua địa chỉ hòm thư điện tử.

Thông tin Hội thảo được đăng tải trên các website :

- Trường Đại học Văn Lang: http://www.vanlanguni.edu.vn

- Viện Văn học: http://vienvanhoc.vass.gov.vn

THAY MẶT BAN TỔ CHỨC

Trưởng ban

PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP








VLU

VIỆN VĂN HỌC


ĐẠI HỌC VĂN LANG

BẢN ĐĂNG KÝ THAM LUẬN

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

Sinh thái và văn hoá Nam Bộ trong văn học Việt Nam

Họ và tên:............................................Giới tính..................................................

Học hàm, học vị:..................................................................................................

Cơ quan công tác:................................................................................................

Địa chỉ liên hệ (ghi rõ là địa chỉ nhà riêng hoặc cơ quan công tác):..................

Điện thoại:.................................. Hòm thư điện tử:.............................................

Số chứng minh thư nhân dân: ............................................................................

Tiêu đề của Tham luận:.......................................................................................

Tóm tắt tham luận (từ 300-500 chữ, sử dụng font Times New Roman) được trình bày bằng tiếng Việt và tiếng Anh dưới dạng file Word và gửi ở dạng file đính kèm trước ngày 30/6/2020 tới địa chỉ email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. ).

Ngày ......... tháng ......  năm …...

Ký tên


 

 
KINH DOANH DU LỊCH TẠI CÁC ĐIỂM TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG PDF. In Email
Thứ hai, 11 Tháng 5 2020 04:10

KINH DOANH DU LỊCH TẠI CÁC ĐIỂM TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG

Ngày nay, “du lịch tâm linh” đang có xu hướng phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam có hệ thống các công trình tôn giáo, tín ngưỡng đa dạng ở khắp các vùng miền. Đây là nguồn tài nguyên phong phú cho hoạt động “du lịch tâm linh” phát triển tại đây. Tuy nhiên khi bắt đầu manh nha ở bất cứ khu vực nào, sự phát triển của hoạt động “du lịch tâm linh” cũng gặp phải những vấn đề vướng mắc được gây ra bởi những mâu thuẫn nội tại ở điểm đến. Bởi thế, bài viết hướng đến việc giải quyết những vấn đề tồn đọng tiêu biểu tại các công trình tôn giáo, tín ngưỡng khi có sự tham gia của hoạt động du lịch để sự phát triển “du lịch tâm linh” ở Việt Nam diễn ra một cách bền vững.

1.     Đặt vấn đề:

Từ trước đến nay người ta vẫn thấy được thế mạnh của các điểm tôn giáo, tín ngưỡng trong kinh doanh du lịch. Các điểm này luôn tiêu biểu cho giá trị văn hóa của một quốc gia, dân tộc nên có sức hấp dẫn tự nhiên đối với du khách từ nơi khác đến. Còn đối với người dân trong vùng, đó là nơi họ thường xuyên lui tới cho những ước vọng về đời sống tinh thần. Khi cuộc sống của con người ngày càng đề cao các giá trị tinh thần thì việc đi thăm viếng các công trình tôn giáo, tín ngưỡng để thưởng ngoạn cảnh quan thanh bình, xa rời thế tục, tham gia vào các hoạt động tại đây như nghe giảng kinh pháp, tọa thiền, ăn chay, làm từ thiện … đang trở thành một xu hướng của cuộc sống hiện đại. Hoạt động “du lịch tâm linh” từ đó ra đời với ý nghĩa giúp du khách: “thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết” (Cựu tổng thống Ấn Độ, tiến sỹ A. P. J Abdul Kalam), hướng con người tới thiện tâm.

Tuy nhiên, cùng với sự tham gia của hoạt động du lịch là quá trình thương mại hóa các giá trị tâm linh, dẫn đến nhiều mâu thuẫn nội tại. Đó là mâu thuẫn giữa những người tham gia vào hoạt động tại các điểm tôn giáo, tín ngưỡng khi mục đích của họ không đồng nhất. Đó là mâu thuẫn về việc sử dụng và đáp ứng các dịch vụ cho du khách. Đó là mâu thuẫn về chi phí và đóng góp cho các công tác nảy sinh khi có hoạt động du lịch. Đây là những vấn đề tiêu biểu nhất mà khi xem xét khai thác bất cứ một điểm tôn giáo, tín ngưỡng nào phục vụ hoạt động du lịch cần quan tâm giải quyết.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch tâm linh rất lớn với hệ thống các đình, đền, chùa, miếu, quán, lăng … dọc theo chiều dài của đất nước, rộng cùng 54 dân tộc anh em và sâu trong bốn ngàn năm lịch sử. Các nhà kinh doanh du lịch cũng đang từng bước khám phá và khai thác các giá trị này với một số các công trình mới có quy mô như khu Bái Đính Tràng An (Ninh Bình), khu Đại Nam Quốc Tự (Bình Dương), công viên Tâm Linh (Đà Nẵng) … Để việc kinh doanh du lịch tại cả các công trình cũ và mới đi đúng hướng, bài viết đề cập đến một số vấn đề vướng mắc trên để các nhà quy hoạch, quản lý có được cái nhìn chiến lược trong từng bước phát triển loại hình du lịch này ở nước ta.

2.     Nội dung:

1)    Vấn đề mâu thuẫn giữa những con người tham gia vào hoạt động du lịch tại điểm tôn giáo, tín ngưỡng:

Mâu thuẫn này thường nảy sinh khi có sự trái ngược về mục đích và quyền lợi giữa những con người tham gia vào hoạt động du lịch các các điểm này.

Thứ nhất, mâu thuẫn không chỉ ở các điểm tôn giáo, tín ngưỡng mà như ở bất cứ điểm du lịch mới khai thác nào khác là giữa du khách và dân địa phương. Sự xuất hiện ồ ạt của những người từ nơi khác đến vào một thời điểm làm thay đổi bầu không khí và nhịp điệu sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương. Sau đó họ cũng để lại những hệ quả mà địa phương không mong muốn như ô nhiễm môi trường từ xả thải, biến đổi tập quán và các giá trị văn hóa từ hành vi,… Hơn nữa, như một vấn đề tâm lý, việc chia sẻ đức tin, chia sẻ “thần hộ mệnh” của mình cho những đối tượng khác nhau khiến người dân bản địa không cảm thấy hài lòng trong việc tiếp đón du khách. Trong một số trường hợp, họ chỉ coi du khách như những người mang đến một phần lợi ích kinh tế cho họ trong việc kinh doanh một số các dịch vụ mà du khách cần tại điểm. Nếu các hoạt động này tự phát và với thái độ chủ quan của dân địa phương sẽ dẫn tới tình trạng “chèo kéo”, “chặt chém” du khách. Điều này làm cho hình ảnh địa phương trong con mắt khách du lịch càng trở nên tồi tệ hơn.

Để giải quyết vấn đề này, cần nhận định rõ vai trò của dân địa phương trong việc xây dựng văn hóa ứng xử tại điểm du lịch. Họ là người chủ duy nhất của các di sản trên địa bàn của họ, trong đó có các công trình tín ngưỡng tâm linh. Bởi vậy cần trao quyền làm chủ cho họ trong mọi hoạt động, trong đó có hoạt động kinh doanh du lịch theo các bước sau:

(i)    Ý kiến và quan điểm của người dân địa phương cần được tham khảo trong ý tưởng quy hoạch du lịch ở bất cứ di sản nào. Đặc biệt nhạy cảm đối với các công trình tôn giáo, tín ngưỡng, bởi nếu không có sự tham vấn ý kiến địa phương, đôi khi dự án vi phạm phải những điều cấm kỵ và mãi mãi không thể thực hiện được trong sự phản đối quyết liệt của toàn bộ dân trong vùng.

(ii)  Người dân địa phương cần được tham gia vào từng lộ trình cũng như mọi hoạt động của dự án quy hoạch du lịch. Mọi cơ hội lao động từ dự án phải luôn ưu tiên người dân bản địa: từ quản lý, giám sát; hướng dẫn, thuyết minh đến những đơn vị cung cấp dịch vụ bán lẻ. Lợi nhuận thu được từ du lịch cũng cần có sự phân chia bình đẳng cho sự tham gia của chính quyền địa phương.

Để người dân địa phương thấy được vai trò, trách nhiệm và lợi ích của họ, song song với việc thực hiện dự án là mở các lớp giáo dục về kiến thức, đào tạo, huấn luyện về kỹ năng. Từng người dân phải thấy được họ có thể phát huy khả năng của họ trong lĩnh vực gì để đăng ký và qua sát hạch với ban quản lý dự án. Điều quan trọng nhất là từng người dân phải nhận thức được vốn tài sản tinh thần vô giá mà họ đang nắm giữ để trở thành người truyền bá, người dẫn dắt du khách tới chân giá trị của đức tin như mục đích họ mong muốn đến đây.

Thứ hai, một mâu thuẫn chỉ nảy sinh tại các điểm tôn giáo, tín ngưỡng là giữa các tín đồ và những du khách phi tôn giáo. Trước đây chùa là nơi dành cho các tín đồ Phật giáo ăn chay, niệm Phật. Đông đảo nhất là vào dịp lễ hội khi các con nhang, đệ tử thập phương hành hương về đây thể hiện sự thành tâm với đức Phật. Ngày nay, khi du lịch tâm linh phát triển, du khách đến đây không chỉ với mục đích thờ tự, đôi khi họ đến chỉ để tìm hiểu về kiến trúc, thưởng ngoạn phong cảnh, thỉnh kinh pháp hay ngồi thiền, ăn chay … như một sự trải nghiệm những điều mới lạ và dành khoảng thời gian tĩnh tại cho tâm hồn. Không đến với mục đích chính, đôi khi họ bị các tín đồ coi như những kẻ quấy rối, gây phiền hà, làm ảnh hưởng đến bầu không khí thanh tịnh của thế giới tâm linh. Để giải quyết vấn đề này, ban quản lý dự án quy hoạch du lịch cần kêu gọi tinh thần tự nguyện tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch của các tín đồ, đặc biệt trong việc hướng dẫn, thuyết minh. Sự trải lòng mình với du khách cũng chính là con đường hiệu quả nhất giúp du khách giác ngộ các chân lý của đức tin mà họ theo đuổi. Mâu thuẫn sẽ trở nên nghiêm trọng với những du khách và tín đồ của những tôn giáo vốn đối lập và kỳ thị nhau hoặc lợi dụng tôn giáo cho mục đích chính trị. Tuy nhiên, cái thiện căn mà bất cứ tôn giáo nào cũng hướng đến thể hiện trong hành vi ứng xử của các tín đồ với du khách sẽ là biện pháp tốt nhất để hóa giải điều này.

Vấn đề mâu thuẫn giữa con người luôn khó phân định và giải quyết trong bất cứ lĩnh vực đời sống xã hội nào. Nhưng trong kinh doanh du lịch khi sức hấp dẫn được tạo ra bởi chính hành vi của con người tại nơi đón tiếp thì việc giải quyết được vấn đề này đã trở thành yếu tố cốt lõi để thu hút ngày càng đông du khách đến đây.

2)    Vấn đề đáp ứng các dịch vụ du lịch tại điểm tôn giáo, tín ngưỡng:

Khách du lịch ngày nay đến các điểm tôn giáo, tín ngưỡng không chỉ đơn thuần với mục đích thờ tự hay tìm hiểu một nét kiến trúc văn hóa, nghe kể về một huyền thoại gắn với di tích mà cần có sự trải nghiệm thực tế tại điểm. Để có được sự trải nghiệm này cần sự hỗ trợ của các dịch vụ bổ sung. Để sự hỗ trợ này trở nên chu đáo, bài bản và làm hài lòng du khách cần sự quy hoạch đồng bộ.

Đầu tiên và quan trọng nhất để tạo ấn tượng tốt đẹp với du khách là khu vực tiếp đón. Khu vực này bao gồm đầy đủ các dịch vụ như:

(i)    đường vào rộng rãi, thuận tiện, có phân làn cho từng loại xe cơ giới, có biển chỉ dẫn rõ ràng, dễ hiểu

(ii)   bãi đỗ xe đủ rộng với sự phân loại các phương tiện như ô tô lớn, nhỏ, xe máy,… đảm bảo an ninh

(iii)  trung tâm thông tin tại cổng là nơi bán vé tham quan cũng như cung cấp tài liệu, thông tin, thuyết minh viên, phương tiện, phục trang và những yêu cầu phải tuân thủ tại điểm

(iv)  lối vào được sắp xếp quy củ, trật tự sẽ làm tăng tính linh thiêng cho điểm tôn giáo. Một số nơi phân chia du khách thành 2 làn: một làn cho khách du lịch theo đoàn và một làn cho khách lẻ (đa phần là các tín đồ) sẽ hạn chế mâu thuẫn nảy sinh và tăng cường sự hợp tác giữa họ.

Trong khuôn viên của công trình, cần phân định rõ khu vực nguyên bản – khu vực tuyệt đối không có sự tham gia của các công trình xây mới, phục vụ cho việc bảo tồn – và khu vực dịch vụ du lịch. Tại các khu vực này, cần xây dựng các nhà chờ phục vụ đồ ăn, thức uống, nhà vệ sinh, quầy bán đồ lưu niệm, đặc sản địa phương. Ở một số điểm, các nhà cung ứng quy hoạch một khu vực ngoài trời hoặc xây dựng một hội trường lớn dành cho các sinh hoạt cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng, là nơi gặp mặt của các tín đồ với du khách, là điểm tổ chức các hoạt động tâm linh cho du khách như nghe giảng kinh pháp, tọa thiền hay học và thưởng thức các đồ ăn chay…

Các hoạt động này ngày nay đã trở thành các hoạt động chính trong các chương trình du lịch đến các điểm tín ngưỡng tâm linh. Phát sinh từ nhu cầu của du khách, không chỉ mong muốn khám phá các giá trị về môi trường tự nhiên và văn hóa nhân văn mà còn mong muốn chạm tới sự cảm hóa của đức tin thông qua các khóa tu, các bài thiền, công tác từ thiện với trẻ mồ côi, người tàn tật … Từ đó mà một số chương trình và loại hình du lịch đặc trưng ra đời như loại hình du lịch Thiền, chương trình các khóa tu mùa hè dành cho thanh thiếu niên hiện nay đã được triển khai ở Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh Phúc), chùa Hoằng Pháp (Thành phố Hồ Chí Minh), chùa Phước Long (Bình Định)…

Bên cạnh đó, để các sản phẩm du lịch khai thác các giá trị tín ngưỡng tâm linh thực sự mang lại hiệu quả cần sự quan tâm quy hoạch vùng đệm. Đó là khu vực xung quanh nơi cung cấp cơ sở lưu trú, nhà hàng, trạm trung chuyển phương tiện vận chuyển, cơ sở y tế, trạm xăng dầu, các cửa hàng và đại lý bán lẻ … Việc đáp ứng được đầy đủ các dịch vụ này cần sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ trong xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch từ chính quyền đến địa phương, từ nhà quản lý đến từng đơn vị kinh doanh du lịch.

3)    Vấn đề chi phí cho công tác quản lý tại điểm tôn giáo, tín ngưỡng:

Hoạt động du lịch sẽ kéo theo các vấn đề phát sinh như sự xuống cấp của di tích, ô nhiễm môi trường bởi sự xả thải và tiếng ồn do du khách gây ra, sự phá hoại do sự thiếu ý thức của du khách như viết, vẽ bậy, sờ tay hay lấy trộm, ăn cắp di vật chỉ để làm một món đồ lưu niệm. Thậm chí việc du khách ăn mặc, ứng xử không đúng với phép tắc trong không gian linh thiêng của công trình tâm linh cũng được coi là một ảnh hưởng xấu tới cảnh quan của điểm. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là phải quản lý để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực do du lịch mang lại.

Trước tiên, cần sự nhận định rõ ràng về quan điểm. Đối với những xuống cấp do áp lực của tự nhiên như thời gian, biến đổi môi trường hay những áp lực có thể lường trước được do sự tăng lên của số lượng du khách cần một chiến lược quản lý dài hạn. Còn đối với những vấn đề có thể kiểm soát được như hành vi của du khách cần những biện pháp quản lý kịp thời.

Tuy nhiên tất cả các hoạt động quản lý này cần những chi phí không nhỏ. Thông thường lợi nhuận lớn thu được từ các dịch vụ trực tiếp tại điểm “chảy” vào “túi” của các nhà kinh doanh nhỏ lẻ thức thời. Chỉ một phần thuế họ chi trả là phục vụ cho các hoạt động chung của điểm và của địa phương. Còn các khoản thu khác từ vé tham quan hay sự quyên góp của du khách không đáng kể so với chi phí quản lý, đặc biệt là chi phí cho công tác bảo tồn và nâng cấp di tích định kỳ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là cần xây dựng mối quan hệ đối tác giữa ban quản lý tài nguyên với các nhà cung ứng dịch vụ. Các nhà quản lý du lịch tại điểm cần được trao quyền tuyển chọn những nhà cung ứng dịch vụ cho mình theo hình thức đấu thầu mà đơn vị có kế hoạch đóng góp lợi ích cho việc bảo tồn được ưu tiên. Các nhà cung ứng dịch vụ cũng cần nhận thức rõ quan điểm phát triển bền vững. Đó là cần sự đầu tư lại cho việc phục hồi di sản và quản lý các hành vi phá hủy tài nguyên để duy trì sức hấp dẫn lâu dài cho điểm du lịch. Mối quan hệ này cần được xây dựng theo mô hình đầu vào – đầu ra trong sản xuất sản phẩm. Trong đó, đầu vào là các dịch vụ được cung cấp để thỏa mãn nhu cầu du khách. Tất cả được vận hành theo quy trình và nguyên tắc do bộ máy quản lý du lịch tại điểm đề ra để cho ra đời các sản phẩm du lịch hoàn hảo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lợi tức từ hoạt động du lịch tại điểm sẽ được bộ máy quản lý này phân phối bình đẳng cho các bên liên quan như đã thỏa thuận. Một phần được giữ lại đảm bảo cho hoạt động quản lý ở các hạng mục:

(i)     chi phí lâu dài cho bảo tồn và khôi phục di sản

(ii)    chi phí cho việc giải quyết các vấn đề phát sinh tại điểm

(iii)   chi phí cho các chiến dịch quảng bá lớn

(iv)   các chi phí khác.

Bởi vậy để hoạt động du lịch tại điểm có hiệu quả, không phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên tham gia cần một bộ máy quản lý có trách nhiệm và nắm vững quan điểm của phát triển bền vững:

(i)     bảo vệ môi trường

(ii)    khai thác tối ưu các giá trị kinh tế

(iii)   phân chia bình đẳng với các bên liên quan.

3.     Kết luận:

Đây là những vấn đề tiêu biểu nhất trong quá trình khai thác một điểm tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ kinh doanh du lịch. Để những điểm tôn giáo, tín ngưỡng không ngủ yên trong những giá trị mà lịch sử mang lại cho nó, cần trao cho nó một sức sống đương đại. Sức sống đó được mang lại bởi hoạt động du lịch. Nhưng để đảm bảo cho hoạt động du lịch diễn ra có hiệu quả, không làm tổn hại đến những gì mà quá khứ để lại, không khơi nguồn cho những mâu thuẫn xã hội, cần một tầm nhìn chiến lược trong công tác quản lý. Bài viết đưa ra một số hướng giải quyết cho những vấn đề cụ thể thường phát sinh tại điểm tôn giáo, tín ngưỡng có sự tham gia của hoạt động du lịch với mong muốn hoạt động du lịch tâm linh bước đầu nhen nhóm ở Việt Nam sẽ có một hướng đi đúng mục đích – con đường giúp con người tìm về với bản thể, vươn tới những điều tốt đẹp hơn. Đây là xu hướng của du lịch hiện đại trên thế giới và nếu được quản lý đúng đắn ở Việt Nam nó sẽ mang đến những giá trị mới cho du lịch nước nhà.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Peter Robinson, Sine Heitmann & Dr Peter Dieke (2011) - Research themes for tourism (Toàn cảnh nghiên cứu về du lịch) – CABI Publishing.

[2] Dallen J. Timothy & Daniel H. Olsen (2006) - Tourism, Religion and Spiritual Journeys (Du lịch và các chuyến đi tâm linh và tôn giáo) – Routledge Publishing.

 

Đặng Thị Phương Anh

(Bài đăng Tạp chí Văn hóa học (ISSN 1859 - 4859), Số 3, năm 2012)

 
«Bắt đầuLùi123456789Tiếp theoCuối»

Trang 1 trong tổng số 9

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: "RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/ UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA" (TRẦN QUỐC TOÀN)

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: “RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA” Trần Quốc Toàn Phó giáo sư - Tiến sĩ khoa học Bùi Mạnh Nhị từng có trang giáo...

Thông báo về việc hỗ trợ khai thác nguồn học liệu trực tuyến trong thời gian giãn cách

THÔNG BÁO V/V HỖ TRỢ KHAI THÁC NGUỒN HỌC LIỆU TRỰC TUYẾN TRONG THỜI GIAN GIÃN CÁCH   Nhằm hỗ trợ Quý Thầy/Cô, các Anh/Chị sinh viên, học viên, nghiên cứu...
 

Học vụ

Thông báo V/v Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN ĐÓNG HỌC PHÍ, CHI PHÍ SINH HOẠT ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM (ÁP DỤNG TỪ KHOÁ TUYỂN SINH NĂM HỌC 2021 - 2022,...

Thông báo V/v Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên hệ chính quy Năm học 2021-2022

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM HỌC PHÍ CHO SINH VIÊN HỆ CHÍNH QUY NĂM HỌC 2021 - 2022     ...
 

Đoàn TN - Hội SV

THÔNG BÁO VỀ HỘI THI NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐHSP TP. HCM NĂM HỌC 2008 - 2009

1/ Mục đích ý nghĩa: Trường ĐHSP là trường có nhiệm vụ hướng nghiệp dạy nghề rất rõ ràng. Đồng thời với việc được trang bị kiến thức về khoa...

 BÀI MỚI NHẤT