Khoa Ngữ Văn
  
nghiên cứu khoa học


VĂN HỌC VIỆT NAM: Sự thẩm thấu của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào thực tế văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX Phạm Xuân Thạch PDF. In Email
Thứ bảy, 10 Tháng 8 2013 14:31

 

Năm 1941, khi viết Một thời đại trong thi ca, tổng kết cho phong trào thơ Thơ mới, Hoài Thanh nhận xét: “Sự gặp gỡ với phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”. Ông tự thú: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong tâm hồn ta” và khẳng định “cái ngày người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, người ấy đã đem theo cùng với hàng hóa phương Tây cái mầm sau này sẽ nảy nở thành thơ mới”[1]. Đã thành một định đề, chúng ta thừa nhận vai trò của văn hóa phương Tây (đặc biệt là văn học Pháp) đối với sự hình thành văn học hiện đại Việt Nam thông qua con đường tác động của cái ngoại lai lên cái bản địa. Từ đó, xuất phát một phương pháp nghiên cứu mà theo chúng tôi gắn với một cách hiểu đơn giản về văn học so sánh: đi tìm dấu vết của yếu tố ngoại lai trên những sản phẩm bản địa. Sẽ xuất hiện những kết luận kiểu như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của Baudelaire, Nguyễn Nhược Pháp có cái duyên của A. de Muset, Xuân Sanh muốn học tập Mallarmé, Valéry hay Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Tuân là môn đệ của A. Gide…tóm lại là theo mô thức “thầy Pháp- trò Việt”. Đẩy xa hơn còn có những kết luận kiểu nếu “thầy Pháp”  là suy đồi, phản động hoặc “đáng ghê tởm” thì “trò Việt” cũng là tiêu cực . Cuộc đối thoại văn hóa giữa người Việt và phương Tây phải chăng chỉ đơn giản như vậy?

Ngược lại lịch sử sẽ thấy cuộc tiếp xúc giữa người Việt và phương Tây được bắt đầu từ khá sớm: thế kỷ XVI. Và từ đó, lợi dụng sức mạnh phương Tây để dành và duy trì quyền lực chính trị đã trở thành chiến lược của không ít triều đình phong kiến Việt Nam. Trên địa hạt văn hóa, suốt nhiều thế kỷ, đã có những nỗ lực từ  cả hai phía để giúp hai nền văn hóa gặp nhau, Nguyễn Trường Tộ là một điển hình. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cuộc gặp gỡ ấy không thể trở thành hiện thực, trên cả phương diện chính trị lẫn phương diện văn hóa. Như vậy, cuộc tiếp xúc giữa người Việt Nam với văn hóa phương Tây trong thế kỷ XX không phải là một hiện tượng đơn lập mà là kết quả của một quá trình. Trong quá khứ, chúng ta đã có những cuộc gặp gỡ với phương Tây và đã có những cơ hội bị bỏ lỡ, chỉ đến thế kỷ XX, do những điều kiện lịch sử khác nhau mà quá trình đó mới có sự đột biến. Tuy vậy , theo chúng tôi, không phải cuộc gặp gỡ trong thế kỷ XX đã là một cuộc gặp gỡ trọn vẹn.

Những quan hệ giao lưu, tiếp biến văn hóa vốn là một quá trình phức tạp về bản chất. Bởi vậy, để khảo sát những quá trình này, cần có sự thay đổi về phương pháp luận mà quan trọng hơn cả, cần nhận thức lại về vai trò tích cực và chủ động của chủ thể tiếp nhận: nền văn hóa – văn học Việt Nam. Chúng ta thừa nhận rằng chiều tác động từ bên ngoài vào nền văn hóa bản địa là hiện thực. Tuy nhiên, yếu tố quyết định sự tiếp nhận những tác động đó lại chính là đặc điểm, tính chất, những nhu cầu và định hướng phát triển của cái bản địa- nói cách khác, “cơ địa” của chủ thể tiếp nhận. Và ngay trong sự tiếp nhận của chủ thể tiếp nhận cũng có một quá trình lựa chọn và chuyển hóa những yếu tố ngoại lai. Chính vì lý do trên, chúng tôi sẽ lựa chọn một cách thức khác để bàn về những quan hệ giao lưu văn học Việt Nam- phương Tây đầu thế kỷ XX: xuất phát từ chủ thể tiếp nhận- văn học Việt Nam. Phạm vi quá rộng cũng như tính phức tạp quá lớn của vấn đề khiến chúng tôi chỉ giới hạn trong một thể loại của tự sự nghệ thuật: tiểu thuyết và một kênh giao tiếp nhất định: văn học dịch. Giới hạn cũng được dừng ở ba mươi năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ sơ khởi, đặt nền móng cho sự phát triển của văn học Việt nam trong những giai đoạn tiếp theo.

 

1. Quá trình vận động của tự sự nghệ thuật Việt Nam đến đầu thế kỷ XX

 

Có một thực tế không thể phủ nhận là trước khi biết đến “tiểu thuyết”, “truyện ngắn”, “tự truyện”…nghĩa là trước khi tiếp xúc với hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật có nguồn gốc từ phương Tây, người Việt Nam cũng có một truyền thống tự sự nghệ thuật được tích lũy qua mười thế kỷ văn học Trung đại. Trong mười thế kỷ đó, chúng ta có cách hình dung riêng về văn học, có những quan niệm và cách định danh riêng đối với hệ thống thể loại trong đó có tự sự. Chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến một số điểm đáng chú ý. Trước hết, đó là tình trạng nguyên hợp đặc thù của văn học Trung đại thể hiện ở sự hỗn dung giữa tự sự và thơ, giữa tự sự nghệ thuật và tự sự phi nghệ thuật. Nếu như ở phương Tây từ thế kỷ XVI, XVII trở đi, tự sự chuyển dần từ thể hiện bằng thơ sang thể hiện bằng văn xuôi thì ở Việt Nam đến hết thế kỷ XIX, người Việt vẫn có thói quen viết và thưởng thức truyện thơ Nôm. Đối với bộ phận tự sự viết bằng chữ Hán, tình trạng đan xen tự sự – thơ là khá bền chặt. Hoặc tự sự được sử dụng như một công cụ, một cái khung để “trưng bày” thơ, hoặc thơ được sủ dụng như một thủ pháp tự sự (bình luận ngoại đề của người trần thuật hoặc một kiểu lời phát ngôn nhân vật). Bên cạnh đó, có thể thấy trong thời Trung đại ở Việt nam, tự sự chưa bao giờ được xếp vào vị trí trung tâm của nền văn học. Ở vị trí đó thường là các thể văn mang tính chức năng được quy phạm hóa, được định danh một cách nghiêm ngặt. “Thân phận” ở vùng biên của nền văn học một mặt tạo nên khoảng sáng tạo cho sáng tác nhưng mặt khác tạo nên tính bất định  thể cho bộ phận văn học này. Những cái tên “chí”, “lục”, “”truyện”, “ký” được sử dụng cho nhiều hình thức tự sự khác nhau. Tự sự nghệ thuật thường được tập hợp trong những văn tập tích hợp nhiều thể loại khác nhau cả nghệ thuật và phi nghệ thuật (truyện truyền kỳ, thần quái, du ký, khảo cứu phong tục, ghi chép “di văn dật sử”…). Điều này thể hiện sự hạn chế trong việc chuyên biệt hóa sáng tác trong từng thể loại của nhà văn thời Trung đại. Và ngay cả ở những bộ phận tự sự tồn tại tương đối độc lập, vẫn có sự “nhập nhằng” thiếu rành mạch giữa tự sự nghệ thuật và sưu tầm, ghi chép văn học dân gian, tôn giáo (truyện truyền kỳ) hoặc ghi chép lịch sử (tiểu thuyết chương hồi về đề tài lịch sử). Những hiện tượng trên là sản phẩm từ sự chi phối của quan niệm văn học và mỹ học Nho giáo, một dữ liệu quan trọng khi khảo sát tư duy tự sự của người Việt. Tất nhiên, chúng tôi không loại trừ nguyên nhân xuất phát từ sự sử dụng ngôn ngữ (đặc biệt đối với truyện Nôm).

Tuy nhiên, từ một phía khác, có thể thấy một xu thế dáng ghi nhận của văn học Trung đại: sự lớn mạnh theo hướng “ly tâm” khỏi mô hình văn học chính thống của tự sự nghệ thuật . Chúng tôi muốn nói đến sự phát triển bắt đầu từ các thế kỷ XVI, XVII của truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm, truyện Trạng, tiểu thuyết diễm tình, tiểu thuyết chương hồi về đề tài lịch sử và các loại truyện ký chữ Hán nói chung về đề tài sinh hoạt xã hội. Đây là thành phần cơ bản tạo nển truyền thống tự sự Việt nam từ đó hình thành nên một thứ “tư duy tự sự”, một thứ vô thức cộng đồng chi phối cách sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm tự sự của người Việt. Cũng phải khẳng định sự lớn mạnh của những nhóm thể loại trên thể hiện một định hướng tiềm năng phá vỡ mô hình văn chương chính thống Nho giáo theo hướng khẳng định vị trí của văn học với tư cách một thể loại nghệ thuật độc lập. Đó chính là những tiền đề nội sinh của quá trình hiện đại hóa nền văn học. Hiển nhiên, do những điều kiện xã hội, lịch sử, văn hóa khác nhau, cho đến hết thế kỷ Xĩ, quá trình nói trên vẫn là một quá trình dang dở và chưa có những phát triển mang tính đột biến.

 

2. Từ những tiểu thuyết phương Tây được dịch trong ba mươi năm đầu thế kỷ.

Sự phát triển mạnh mẽ của văn học dịch là một hiện tượng dặc thù của văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ. Trong lịch sử văn học dân tộc, dịch thuật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Điều đáng lưu ý là đến giai đoạn này, có hiện tượng tìm đến  với những “đối tác” phi truyền thống để chuyển ngữ”: văn học phương Tây. Trong bước sơ khởi của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ, văn học dịch đã giữ vai trò thay thế những sáng tác thuần Việt để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của lớp công chúng mới ở đô thị đồng thời là chất xúc tác cần thiết kích thích sáng tạo nơi những nhà văn Việt buổi đầu. Do những khó khăn về ngôn ngữ, phải đến khoảng những năm 1913-1915, chúng ta mới có những bản dịch văn học phương Tây đích thực bao gồm truyện ngắn và một số tiểu thuyết dài. Giai đoạn này gắn với sự lớn mạnh của một số tờ báo bằng tiếng Việt (Trung Bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí, Phụ nữ tân văn…) và những dịch giả thuộc thế hệ trí thức tân học đầu tiên: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố…Có thể khẳng định, trong ba mươi năm đầu thế kỷ, dịch thuật là kênh giao tiếp quan trọng nhất giữa văn học phương Tây và văn học Việt Nam. Từ sau 1930, với sự trưởng thành của một thế hệ người Việt được đào tạo trong nhà trường Pháp- Việt (thế hệ đồng thời với những nhà văn sáng tác trong giai đoạn 1932- 1945), quá trình giao tiếp này được tiến hành chủ yếu thông qua con đường tiếp xúc trực tiếp với nguyên tác, văn học dịch nhường lại văn đàn cho những sáng tác thuần Việt.

Tạm gạt sang một bên bức tranh toàn cảnh rộng lớn và phồn tạp của văn học dịch về nguồn gốc (Văn học cổ điển, Cận hiện đại Trung Quốc, Văn học phương Tây) cũng như về thể loại (tiểu thuyết chương hồi, ký sự, du ký, kịch cổ điển phương Tây, truyện ngắn, tiểu thuyết phương Tây), hãy tập trung vào một số bộ tiểu thuyết lớn của phương Tây được chuyển ngữ sang tiếng Việt đầu thế kỷ. Số lượng những tác phẩm này không nhiều, bao gồm:Gil Blas de Santilane (Lesage), Têlêmác phiêu lưu ký (Fénélon), Mai nương Lệ cốt(Manon Lescaut Abbé Prévost), Quylive du ký (Les voyages de Guilliver- Swift), Ba người lính ngự lâm (A. Dumas), Miếng da lừa(H. de. Balzac), Những kẻ khốn nạn (V. Huygo). Những dịch phẩm nàygắn với tên tuổi của một nhà báo, dịch giả thuộc thế hệ những người Việt Nam đầu tiên am hiểu văn hóa phương Tây: Nguyễn Văn Vĩnh. Cũng có thể kể thêm một số tiểu thuyết gia phương Tây tuy không được dịch nhưng cũng có ảnh hưởng rộng rãi ở Việt Nam lúc bấy giờ: J. J. Rousseau, Chateaubriand, Bernadin de Saint Pierre. Tuy nhiên, những tác giả này được người Việt tiếp nhận ở phương diện tư tưởng hơn là phương diện thể loại. Đựa trong tiến trình thời gian, những tiểu thuyết nói trên chủ yếu thuộc về văn học châu Âu thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX với đại diện “cổ điển nhất” là Fénelon (thế kỷ XVII) và những gương mặt “hiện đại” nhất bao gồm A. Dumas, H. de Balzac, V. Huygo.

Trên bình diện loại hình, dễ dàng nhận thấy điểm chung của những tiểu thuyết nói trên: mô hình tiểu thuyết phiêu lưu (roman daventure) và tiểu thuyết bợm nghịch (roman picaresque). Đây là dạng thức sơ khởi của tiểu thuyết phương Tây hình thành trong thời đại Phục Hưng mà trên đó, xuất hiện những công trình vĩ đại đầu tiên của tiểu thuyết hiện đại châu Âu: Pantagruel và Gargantua (F. Rabelais, thế kỷ XVI) và đặc biệt là Don Quichotte(Cervantes, thế kỷ XVII). Công thức của dạng tiểu thuyết này khá đơn giản: sự di động của một nhân vật, đôi khi thuộc hạng người dưới đáy xã hội (nhân vật bợm nghịch- picaro) trong những không gian và môi trường (địa lý và xã hội) khác nhau. Cuộc phiêu này có thể được trần thuật lại từ lời của người trần thuật (narrateur) nhưng thông thường hơn cả là từ lời của nhân vật (trần thuật từ ngôi thứ nhất). Tùy theo từng dạng thức phát triển của tiểu thuyết mà cuộc phiêu lưu của nhân vật có thể được sử dụng như một công cụ để khám phá những không gian địa lý của thế giới (tiểu thuyết phiêu lưu); mô tả những bức tranh phong tục, sinh hoạt xã hội (tiểu thuyết bợm nghịch); hoặc đảm nhận chức năng của một cái khung mà trên đó đan cài những đối thoại, những lời giáo huấn, những bài học về triết lý và luân lý (tiểu thuyết giáo dục- bildungsroman- kiểu Têlêmac phiêu lưu ký hay tiểu thuyết biểu tượng triết lý kiểuQuylive du ký). Với chức năng trần thuật như trên, trong những dạng tiểu thuyết này, tính cách nhân vật thường đơn giản và bất biến. Đặt trong một cái nhìn khái quát về những tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt những năm đầu thế kỷ và đặc điểm loại hình của chúng như trên, có thể khẳng định  giá trị của những bản dịch Miếng da lừa (H. de. Balzac) hay Những kẻ khốn nạn (V. Huygo) như là những nỗ lực tiếp cận với những kết cấu tiểu thuyết phức tạp và hiện đại của thế kỷ XIX. Dẫu vậy, ngay cả trong những tiểu thuyết này, dấu vết của những mô hình tiểu thuyết nói trên vẫn còn khá đậm nét.

Trên bức tranh toàn cảnh về những tiểu thuyết dịch trong những thập niên 1910, 1920 ở Việt nam như trên, bước đầu, hoàn toàn có thể khẳng định, trong quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa người Việt và phương Tây, sự thâm nhập của một số hình thức tiểu thuyết phương Tây vào thực tế văn học Việt nam bắt buộc phải qua một thứ “phin lọc”. Đó là tư duy tự sự của người Việt được hình thành qua truyền thống văn học Trung đại và những định hướng thẩm mỹ đôi khi nghịch chiều của người Việt trong buổi bình minh của thời hiện đại. Dễ dàng nhận thấy sự tương đồng của những hình thức tiểu thuyết nói trên với kết cấu truyện Nôm và truyện Trạng, những hình thức tự sự đặc trưng của văn học Trung đại. Việc chuyển ngữ những tác phẩm trên, một mặt đáp ứng niềm khát khao khám phá hiện thực xã hội và thế giới thông qua những cuộc phiêu lưu và những chặng đường đời của nhân vật, một thứ nhu cầu thẩm mỹ chỉ hình thành trong con người hiện đại, một mặt, phù hợp với thói quen đối với văn chương triết lý, văn chương giáo huấn, văn học minh họa của mỹ học Nho giáo Trung đại. Hiện tượng đó phản ánh một quy luật không chỉ của các quá trình giao lưu văn học mà ở một quy mô rộng hơn- văn hóa. Tự bản chất, đó là một quá trình mang tính chủ động, tự nguyện và bình đẳng. Nó chống lại mọi hình thức áp đặt và cưỡng bức, đồng thời hàm chứa một cơ chế tự đào thải, tự điểu chỉnh và một khả năng chuyển hóa những tác động ngoại sinh thành những yếu tố nằm trong cấu trúc nội sinh. Vấn đề là thông qua tấm “phin lọc” đó, những gì đã được thẩm thấu, phát huy tác động trong thực tế văn học Việt Nam và những gì đã bị bỏ qua. Cụ thể hơn, đâu là giới hạn của một quá trình giao lưu và tiếp nhận,

 

3. Đến giới hạn của một sự tiếp nhận

 

Trong những phần trên, chúng tôi đã đề cập đến một hướng nghiên cứu văn học so sánh tạm gọi là tìm dấu vết của cái ngoại lai trên những sản phẩm bản địa. Một cách công bằng, đinh hướng khảo sát này không phải là không có những giá trị nhất định và quan trọng hơn cả, cung cấp những cứ liệu mang tính thực chứng cho sự khảo sát về những quan hệ giao lưu văn hóa. Theo định hướng này, những dấu vết ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, đặc biệt là những tác phẩm được dịch thuật và giới thiệu ở Việt Nam đầu thế kỷ là hoàn toàn hiện thực. Mô hình của những dạng tiểu thuyết mà chúng tôi đã đề cập trong những phần trên được sử dụng trong tác phẩm của hầu hết những nhà văn sáng tác tiểu thuyết ở Việt Nam trong giai đoạn sơ khởi của thời hiện đại: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Giấc mộng con), Đặng Trần Phất (Cành lê điểm tuyết, Cuộc tang thương); Trọng Khiêm (Kim Anh lệ sử); Nguyễn Trọng Thuật (Quả dưa đỏ); Nguyễn Tường tam (Nho Phong)…Nhiều sơ đồ cốt truyện được sử dụng lại gần như nguyên vẹn dưới dạng phóng tác, một hành vi thực chất là sử dụng công cụ nghệ thuật từ những nền văn hóa ngoại lai để phục vụ ý đồ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Ngay trong cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của người Việt, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, dấu vết ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XVIII và đầu XIX cũng là khá đậm nét. Hình thức thuật chuyện ở ngôi thứ nhất được tác giả sử dụng một cách thuần thục, toàn bộ cốt truyện được tan hòa vào lời kể của ba nhân vật chính (người thuật chuyện. Tố Tâm, Đạm Thủy) dưới nhiều hình thức (hồi ức, kỷ niệm, thư, nhật ký…) Những thủ pháp miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật kiểu phương Tây tỏ ra được nhà văn làm chủ. Dạng thức tâm lý nhân vật (tâm lý kiểu mặt phẳng, như một số nhà phê bình định danh) cũng là tương đồng với mô thức tâm lý của nhân vật tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XVIII, đầu XIX. Ngoài ra, cũng còn phải kể đến ảnh hưởng của nhiều tư tưởng, cảm hứng của văn học phương Tây đã được nhà văn Việt nam tiếp nhận: tinh thần dân chủ, thái độ bênh vực và đồng cảm với người nghèo, tinh thần tự do tư sản, nỗi buồn lãng mạn…Tuy nhiên, tất cả những điều trên chỉ là những dữ liệu ban đầu, những hiện tượng bề mặt.

Trong quá trình tiếp xúc với phương Tây, những ảnh hưởng của nền văn học ngoại lai đối với nền văn học bản địa không chỉ dừng ở những biểu hiện trực tiếp trên bề mặt mà còn chạm đến những “chỗ sâu nhất” của nền văn học: tư duy nghệ thuật, quan niệm về văn học . Trước hết, đó là sự thay đổi trong quan niệm về giá trị của tiểu thuyết nói riêng, tự sự nghệ thuật nói chung. Như chúng tôi đã trình bày, trong quá khứ, các thể văn tự sự chưa bao giờ được xem như hình thức văn học chính thống, văn học cao quý. Chỉ đến giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi tiếp xúc với văn học phương Tây và đặc biệt với tiểu thuyết “thể văn thịnh hành nhất đời nay” ở phương Tây (Phạm Quỳnh)[2], “thân phận” của thể loại này mới bắt đầu có sự thay đổi. Tiểu thuyết được đề cao, được xem là một thành phần của quốc văn, là “văn vị đời”, “văn hữu dụng” thậm chí còn hơn cả thi ca, những thứ  “chỉ dùng để ngâm nga, không suy ra sự thực” (Nguyễn Bá Học)[3]. Đây là một hiện tượng phức tạp. Nó xuất phát từ một ảo tưởng  đối với văn học phương Tây. Tiếp xúc chủ yếu với tiểu thuyết thế kỷ XVIII và đầu XIX, những tác phẩm mang đậm tinh thần bách khoa của thế kỷ ánh sáng với sự đan cài của triết lý, luân lý, những bức tranh phong tục vào kết cấu tự sự , cái được đánh giá cao ở tiểu thuyết phương Tây đối với nhà văn đương thời là luân lý, trí thức, triế lý chứ không phải nghệ thuật. Đó là một sự nối dài những quan niệm thực dụng của những phong trào Duy Tân đầu thế kỷ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là chính những quan niệm này đã mở đường cho tiểu thuyết bước vào vị trí trung tâm của nền văn học mới. Thứ hai, đó là sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn về vai trò của “tả”, “tả thực”. Tiếp xúc với văn học Pháp, Đặng Trần Phất ca ngợi A. Daudet và P/ Bourget là đã “lấy ngòi bút mà tả rõ cái tình trạng một xã hội về phong tục, tâm lý con người… “[4]. “Tả thực” trở thành một đặc điểm của văn chương phương Tây được nhà văn Việt Nam ngưỡng mộ và đồng thời trở thành một tiêu chí để phê bình, định giá văn học, kể cả văn học quá khứ. Đề cao vai trò của “tả thực”, trên thực tế thể hiện sự thay đổi trong quan niệm về thế giới (conception du monde), trong cái nhìn về thế giới (vision du monde) của nhà văn: hiện thực khách quan không còn được quan niệm như đối tượng của một cái nhìn mang tính đạo đức, một đối tượng cải hóa, giáo hóa mà trở thành một đối tượng khám phá, đối tượng tìm hiểu. Sự thay đổi đó chính là đặc trưng của thời hiện đại. Chúng tôi cũng đã nói đến một tình trạng nguyên hợp đặc thù của văn học Trung đại giữa thơ- văn xuôi, giữa tự sự nghệ thuật – phi nghệ thuật. Tình trạng này kéo dài cho đến hết thế kỷ XIX, thậm chí tận đầu thế kỷ XX. Ngay trong Tố Tâm, tiểu thuyết hiện đại dầu tiên của Việt Nam, dấu vết của sự đan xen thơ- tự sự vẫn còn hiện hữu. Chỉ có điều đáng ghi nhận là với sự tiếp xúc với tiểu thuyết phương Tây, với sự tiếp nhận những kỹ thuật của tiểu thuyết phương Tây (sơ đồ cốt truyện, kỹ thuật phân tích tâm lý, dựng ngoại cảnh…) tiểu thuyết Việt Nam bắt đầu làm chủ những công cụ nghệ thuật đặc thù bằng văn xuôi, thoát khỏi sự lệ thuộc vào thơ. đó là một bước thay đổi quan trọng của tư duy nghệ thuật. Theo chúng tôi, tiền đề của những thay đổi này đã được tích lũy trong quá trình phát triển của văn học Trung đại. Vấn đề là sự tiếp xúc với văn học phương Tây đầu thế kỷ có vai trò như một chất xúc tác, cung cấp những chất liệu, công cụ để đẩy mạnh những quá trình vận động dang dở đó thành một bước đột biến .

Trên đây, chúng tôi đã trình bày những tác động tích cực của tiểu thuyết phương Tây đối với sự phát triển của văn học Việt nam đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, cuộc đối thoại đó không phải không có những giới hạn. Dễ nhận thấy, trong ba mươi năm đầu thế kỷ, những gì mà người Việt dịch và biết thuộc về một khúc đoạn  trong lịch sử hơn bốn thế kỷ của tiểu thuyết phương Tây (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX). Chúng tôi muốn nói đến những gì mà người Việt đầu thế kỷ đã bỏ qua. Đó là toàn bộ tiểu thuyết phương Tây Phục Hưng với những đại diện tiêu biểu là F. Rabelais, M. Cervantes. Có thể, thời gian là quá xa cho một sự gặp gỡ nhưng cũng cần phải nhớ là những người đồng thời với Cervantes là Molière, Racine, Corneile đều đã được dịch sang tiếng Việt trong những thập niên 1910- 1920. Chính xác hơn, tinh thần trang nghiêm ảnh hưởng của Nho giáo đã ngăn chặn người Việt tiếp xúc với những công trình nghệ thuật đầy tinh thần hài hước, phóng tưởng, những kết cấu đồ sộ đầy tinh thần nhân văn Phục hưng với sự suồng sã, thô tục trong quan hệ giao tiếp với thế giới . Cái grotesque đến mức cực đoan hình như không phù hợp với tư duy người Việt. Đó chính là lý do Những kẻ khốn nạn của V. Huygo được chọn dịch thay vì Nhà thờ đức bà và cho đến tận bây giờ vẫn có không ít người không chấp nhận những nhân vật dị nghịch của Nam cao. Ở một phía khác, ngưỡng hiện đại của văn học phương Tây được người Việt tiếp nhận dừng ở Huygo và Balzac (Balzac thời kỳ đầu). Những đại diện đích thực của chủ nghĩa hiện thực Pháp bị từ chối: Stendhal và Balzac (trên phương diện nhà hiện thực). ước mơ dùng tiểu thuyết cạnh tranh với sổ hộ tịch dường như quá xa vời với người Việt.

Đó là chưa kể đến những đại diện của chủ nghĩa hiện thực Anh và Nga: Dickens hay Gogol. Và cuộc tiếp xúc dừng ở nửa đầu thế ký XIX. Toàn bộ nửa sau của thế kỷ XIX: Flaubert với cuộc du hành trong thế giới của cái tầm thường, Tolstoi với những hình thức sử thi đồ sộ và phát hiện về tính biện chứng của tâm hồn, Dostoievski với những cuộc va chạm dữ dội của các tư tưởng trong hình thức đa thanh …bị chối từ. Năm 1928, trong một tập truyện ngắn (Người quay tơ) Nguyễn Tường Tam có dịch một truyện ngụ ngôn của L. Tolstoi. Vậy là Tolstoi người kể chuyện hoặc Tolstoi nhà tư tưởng có thể chấp nhận được nhưng Tolstoi nhà tiểu thuyết thì không. Không thể phủ nhận, có một cái ngưỡng trong cuộc tiếp xúc giữa người Việt và phương Tây đầu thế kỷ.

Có nhiều yếu tố lý giải cho cái ngưỡng đó: sự phát triển kinh tế- xã hội hoàn cảnh mất nước…và trên một số phương diện , đến những giai đoạn sau, giới hạn của cái ngưỡng đó đã được nới rộng . Nhưng ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh một giới hạn khác: cái ngưỡng trong chính tư duy người Việt. Dường như những gì quá phức tạp, quá đa chiều, “đa thanh” đều không phù hợp với tư duy người Việt. Và ngay cả những gì được tiếp nhận cũng đều được giản hóa cho phù hợp với cái đúng tộ, cái chừng mực của người Việt. Vậy mà sự phức tạp đó lại chính là tinh thần của tiểu thuyết. Không có nó, không có tiểu thuyết và càng không có những khám phá đích thực của tiểu thuyết hiện đại. Theo chúng tôi, đó mới thực sự là giới hạn được đặt ra không chỉ với văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX mà còn kéo dài cho đến tận ngày nay. Giới hạn trong chính chúng ta. Một giới hạn cần phải được vượt qua, như lời kêu gọi đầy tinh thần anh hùng của Nietzche: Con người là một cái gì cần phải bị vượt qua./.

 


[1] Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Van Học, Hà Nội, 1988

[2] Phạm Quỳnh, Bàn về tiểu thuyết, dẫn từ sách Khảo về tiểu thuyết (Vương Trí Nhà sưu tầm), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.

[3] Nguyễn Bá Học, Lời khuyên học trò, dẫn từ sách trên

[4] Sđd

 

nguồn: phebinhvanhoc.com.vn

 
VĂN HỌC VIỆT NAM: HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM “NHÂN SINH CHI KHOÁI LẠC” (1) VÀ SỰ TRỖI DẬY CỦA KHÁT VỌNG SỐNG TRONG PHÚ NÔM THỜI TRUNG ĐẠI (Đàm Anh Thư)* PDF. In Email
Thứ tư, 15 Tháng 5 2013 14:56

 

Từ Phụng thành xuân sắc phú (Nguyễn Giản Thanh) đến Đại Đồng phong cảnh phú (Nguyễn Hãng), Tụng Tây Hồ phú (Nguyễn Huy Lượng), phú Nôm không thiếu những tác phẩm rực rỡ, hoa mỹ nhằm đáp ứng mục đích ngợi ca sự hùng mạnh của vương triều và quyền uy của nhà vua. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một mảng tục phú phát triển theo khuynh hướng mang tính chất thông tục, bình dân nhập vào bản chất sang trọng vốn có của thể loại. Ở mảng sáng tác này, cái được phú Nôm quan tâm không phải chỉ có “đạo” và “chí”, mà còn là khát vọng sống, hay nói cụ thể hơn, là khát vọng được sống thành thật với nhu cầu bản năng của cá nhân mình, bất chấp quan niệm “tồn thiên lý, diệt nhân dục” của Nho giáo. Với nguồn cảm hứng nhân sinh mới mẻ ấy, phú quốc âm dần đi xa khỏi phạm vi của những nguyên tắc có tính quy phạm, tiến gần hơn về phía văn học dân gian, kết hợp các yếu tố tiếp nhận được từ cội nguồn truyền thống dân tộc với đặc trưng thể loại để tạo nên góc nhìn riêng về khát khao yêu và được yêu của con người.

1. Trước hết, phú Nôm không viết nhiều về những cung bậc cảm xúc đa dạng trong tình yêu dù truyền thống này đã xuất hiện ở phú Trung Hoa từ rất sớm với Trường Môn phú (Tư Mã Tương Như), Định tình phú (Trương Hoành), Lạc thần phú (Tào Thực),v.v. Có lẽ, đối với văn học dân tộc, khúc ngâm và truyện thơ đã chứng tỏ đấy là những thể loại thích hợp với việc diễn tả tình cảm yêu đương đến mức các thể loại khác cảm thấy thừa khi dự phần vào. Cho nên, cũng là nói về khát vọng sống nhưng phú quốc âm chọn một lối đi khác, dùng đôi mắt hài hước nhưng đầy trân trọng để nhìn nhận nhu cầu ân ái tự nhiên, lành mạnh của con người. Ra đời vào thế kỷ XVIII, Ngã ba Hạc phú (Nguyễn Bá Lân) đã bắt đầu cho một quan niệm, cũng là cùng một triết lý về đời sống bản năng:

“Ai hữu tình ngắm lại mà coi, kể làm cực nhân sinh chi khoái lạc.”

Từ triết lý này, Nguyễn Bá Lân biến khung cảnh thiên nhiên vùng ngã ba sông thành những biểu tượng đa nghĩa gợi nhắc đến sinh hoạt yêu đương và ca ngợi sinh hoạt ấy như niềm vui hồn nhiên của loài người. Rõ ràng Nho giáo không hề đặt cơ sở cho việc tạo ra cách hình dung như vậy. Ứng xử của Nguyễn Bá Lân với thiên nhiên là cách ứng xử của cư dân vùng nông nghiệp trồng lúa nước, không phải cung cách của nhà nho nhìn thế giới. Thiên nhiên được phản ánh trong tác phẩm văn học, theo đúng quan niệm thẩm mỹ Nho giáo, phải là biểu tượng của cái đẹp có liên quan đến đạo đức. Trúc đại diện cho phẩm chất cứng cỏi của người quân tử, tùng được cái dày dạn không sợ tuyết sương như bậc đại trượng phu. Người bình dân cũng chia sẻ kiểu tư duy của con người thời trung đại. Thế nhưng, điểm đặc biệt ở quan niệm của những cư dân thuộc nền nông nghiệp lúa nước sống gắn bó với ruộng đồng là cách nhìn thiên nhiên như cội nguồn của sự sinh sôi. Sinh sôi, với họ, sẽ gọi niềm vui ùa về. Vì vậy, trong tập tục sinh hoạt dân gian, lễ gắn chặt với hội, sau nghi thức thờ cúng thiêng liêng là những trò chơi vừa vui tươi vừa mang đậm dấu ấn văn hóa phồn thực, cầu mong vụ mùa bội thu. Cảm hứng trào lộng của Ngã ba Hạc phú không thể cắt nghĩa dựa trên bất kỳ học thuyết ngoại lai nào mà chỉ có thể được bắt nguồn từ tiếng cười vui của dân tộc, từ không khí lễ hội, từ văn hóa dân gian. Nguyễn Bá Lân hầu như hấp thu hoàn toàn cái nhìn vui tươi dân gian, biến Ngã ba Hạc phú từ một tác phẩm vịnh cảnh đơn thuần trở thành một điệu khúc rộn rã về nhịp sống “vui thay” của người dân nơi bến sông. Cảnh trong bài phú cũng rộng mở như chính tâm hồn người viết đang rộng mở để thâu tóm cho kỳ hết hình ảnh, âm thanh náo nhiệt của cuộc sống trù phú, tràn trề sức xuân:

“Trên thì:

Một vẻ một màu;

Mỗi chiều mỗi khác.

Móc gieo ngọn cỏ ngọc dầy dầy;

Đá dãi hơi sương vàng xua xủa.

Dùi điểm thùng thùng trống gọi, điếm tuần ti dồn dập khách chen vai;

Chày đấm văng vẳng chuông nghe, nhà phật tự lao xao người rén bước.”(2)

Không hề thái quá khi khẳng định Nguyễn Bá Lân đã mở đầu một điệu cười riêng cho phú quốc âm. Ngã ba Hạc phú vẫn giữ lại chức năng tụng ca của thể loại, có điều thay vì đề cao sức mạnh của vương triều và quyền uy của vua, chức năng này được áp vào một nội dung phi chính thống, khiến cho tiếng cười ở thể phú hóm hỉnh, nghịch ngợm, bao dung hơn là châm biếm, mỉa mai, đả kích. Sau Ngã ba Hạc phú, trong phú Nôm xuất hiện một loạt các nhân vật thích thú với “chuyện ấy”, “cái ấy”. Điểm đặc biệt là họ bộc lộ niềm thích thú đó một cách “tự nhiên nhi nhiên”, không che giấu hay làm bộ làm tịch, từ ông thầy đồ tiếc nuối vì lỡ mất việc chứng kiến cảnh cô gái hớ hênh “để ra cả” trong Xem cờ để mãnh phú (Nguyễn Hổ Trừu):

“Tiên sinh nghe rồi,

Nãi mỉm kì môi,

Nãi vỗ kì đùi,

Nãi quẳng kì roi,

Vị nhiên thán viết:

Ối trời ơi, ối đất ôi!

Thế mà hôm qua không có tôi!”

đến những người phụ nữ của các tác phẩm khuyết danh tự nhận lấy cái danh “lẳng lơ”, “gào chồng”:

“… Mười lăm, mười tám; mười bảy, mười ba.

Ta giữ nết ta;

Thế nào cũng là.

Chồng con chi cho bận tấm lòng, uốn ngược uốn xuôi khôn đường chiều chuộng;

Chị em hỡi chẳng chơi cũng thiệt, một năm một tuổi trẻ mãi ru mà?

Vậy nên:

Lẳng ăn, lẳng chơi;

Lẳng nói, lẳng cười.

Lẳng đi, lẳng lại;

Lẳng đứng, lẳng ngồi.

Ta lẳng cứ lẳng;

Người cười cứ cười.”

(Khuyết danh, Lẳng lơ phú)

Quan niệm của họ đã đi xa khỏi quan niệm chính thống của thời trung đại. Và cố nhiên, để thể hiện nguồn cảm hứng nhân sinh mới mẻ, thi pháp của thể phú cũng có thay đổi ở những mức độ nhất định với các yếu tố lệch chuẩn dần được thêm vào.

2. Tư cách thể loại của phú đã được xác định dựa trên hệ thi pháp riêng mà nó sử dụng để chiếm lĩnh hiện thực. Phô diễn, lấy tả vật làm trung tâm là biểu hiện cụ thể nhất để phân biệt giữa phú và thơ. Khi viết về khát vọng sống, phú Nôm cũng áp dụng cách miêu tả tỉ mỉ này. Tuy vậy, khả năng tái hiện khung cảnh, sự vật qua nhiều góc cạnh ở phú Nôm không nhất thiết nhằm thỏa mãn chức năng tụng ca và bản chất sang trọng của thể phú. Đề cập đến đời sống bản năng, phú Nôm mang những hình ảnh có tính điển phạm ra giễu nhại, chính vì thế miêu tả càng tỉ mỉ, tiếng cười càng giòn giã. Trong trò đố nhau, người bình dân vẫn dùng những vật dụng thường ngày có hình dáng dễ liên tưởng đến sinh thực khí để đánh lạc hướng tư duy người nghe và xem đó như một thú giải trí vui nhộn. Ngã ba Hạc phú tiếp thu phương thức ấy. Ông quan to Nguyễn Bá Lân học ở nhân dân lối nói ỡm ờ, trêu ghẹo. Nhưng Nguyễn Bá Lân vẫn là Nguyễn Bá Lân nên cách xây dựng hình tượng cũng có nét khác dân gian. Hình ảnh cuộc sống ấm no của nhân dân Ngã ba Hạc bề ngoài được miêu tả theo bút pháp ước lệ, tượng trưng quen thuộc trong văn học trung đại với một loạt điển tích: vua Bàn Cổ, họ Hữu Ngu, vua Tống, trời Nghiêu, ông Lã (Lã Vọng), Chử Đồng Tử. Nhưng Nguyễn Bá Lân lại đặt các điển tích này trong tình thế oái oăm. Oái oăm do câu thiếu hẳn chủ ngữ, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Oái oăm còn do từ ngữ quá gợi hình, khi đi liền nhau thì nghĩa của chữ ở vế dưới níu gọi nghĩa của chữ ở vế trên, hợp thành một trường liên tưởng gợi ra cảnh ái ân: “vén quần”, “vỗ bụng”, “cắm néo”, “quỳ gối”, “lắc cày xuôi”, “dang nách”, “khom lưng”, “chèo dếch ngược”:

“Rủ dây dù ông Lã máy cần;

Trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước.

Bè khách thương bạ bến, tượng chân quỳ gối lắc cầy xuôi;

Thuyền ngư phủ trôi dòng, dang nách khom lưng chèo dếch ngược.

[…]

Khác gì:

Những chốn Tiêu Tương;

Đồ tranh thủy mặc.

Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;

Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu, xướng ca canh tạc.”

Lớp nghĩa thứ hai ẩn giấu sau lớp nghĩa thứ nhất chẳng những không làm mờ lớp nghĩa thứ nhất mà cả hai xuyên thấm vào nhau, cùng mở ra một miền sông nước nhộn nhịp với cảnh vật dễ quyến lòng người. Có thể nói giá trị lớn nhất của tác phẩm chính là ở điểm này: khai mở lối xây dựng hình tượng song quan, đa nghĩa hướng đến việc gây cười trong thể phú, và rộng hơn, trong văn chương quốc âm.

Sang thế kỷ XIX, Xem cờ để mãnh phú (Nguyễn Hổ Trừu) tuy vẫn kế thừa cách xây dựng hình tượng đa nghĩa từ Ngã ba Hạc phú nhưng sự táo bạo đến đây đã được đẩy lên mức độ cao hơn. Tận dụng độ dài và bố cục của một bài phú Đường luật, tác giả sắp xếp các mảng, miếng gây cười dọc theo suốt tác phẩm để mỗi lần chuyển đoạn là người đọc lại đối diện với một bất ngờ mới đầy tính khôi hài. Việc đánh cờ lúc bắt đầu là trò chơi nho nhã của các nho sinh:

“Nguyên phù hôm qua;

Thầy đi vắng nhà.

Nhân thư nhàn chi vô sự;

Viên bàn cờ chi giở ra.

Song sự xuất hiện của cô gái hàng xóm đã làm náo loạn tất cả:

“Ai ngờ cô ta;

Ngồi lê ngồi la.

Túng thè lưỡi chi ra;

Sính khát nước chi gà.

Người chẳng ra người;

Ma chẳng ra ma.

Mải mê việc nước;

Hớ hênh của nhà.”

Nhờ đặc điểm phô diễn, miêu tả chi tiết của thể loại, Xem cờ để mãnh phú trở thành tác phẩm hiếm thấy trong văn học viết vẽ lại một cách tường tận cái “của nhà” mà cô gái đến xem cờ mải vui vô ý nên để lộ ra:

“Đá sỏi gan gà, nhược phá giao chân chi mã;

Mộc lừa mai bản, kinh hồi chọc rách chi xa.

Nhi bành bạnh ra!;

Nhi chành chạnh ra!

Ức ông Mãnh ra!;

Ức ông Kệnh ra!

Ức hổ mang chi cổ bạnh ra!”

Tuy vậy, đấy vẫn chưa phải đỉnh cao của tiếng cười về cái gọi là “nhân sinh chi khoái lạc” trong bài phú. Cái hài thật sự chẳng những không nằm ở chỗ câu chuyện có cô gái đến xem học sinh đánh cờ, vô ý vô tứ để ra cả, mà cũng chẳng do lối biện minh chẳng còn thiết gì đến kinh sách của mấy anh học trò “Thế mà không cười, họa có ông thánh”. Tiếng cười chỉ vỡ òa vào phút cuối, với kết luận bất ngờ của người thầy về toàn bộ câu chuyện:

Tiên sinh nghe rồi,

Nãi mỉm môi,

Nãi vỗ đùi,

Nãi quẳng roi,

Vị nhiên thán viết:

Ối trời ơi, ối đất ôi!

Thế mà hôm qua không có tôi!

Lẽ ra, sự xuất hiện của hư từ trong thể phú là hoàn toàn đúng quy tắc. Nhưng khi đặt cạnh những từ ngữ chỉ thuộc về khẩu ngữ, chúng lại tạo thành sự lệch chuẩn đầy sáng tạo. Cái cách diễn đạt nửa Hán nửa Nôm, “nửa nạc nửa mỡ” ấy chính là sự biểu hiện đắc địa nhất dành cho tính chất trí thức nửa mùa của những anh nho sĩ, thầy đồ trong buổi Nho học về chiều, khi chữ “lễ” đã không thể níu giữ được sự bùng nổ của khát vọng và tình cảm riêng tây. Tiếng cười vang lên khi “vở kịch” hạ màn đã lôi tuột những gì thuộc phạm trù cao quý, trang nghiêm xuống vị trí tầm thường, mang trả con người thần thánh về với trần gian tràn đầy những niềm vui thế tục.

3. Với sức trỗi dậy mạnh mẽ, khát vọng sống không chỉ tác động đến nghệ thuật miêu tả mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới hình thức, thủ pháp nghị luận trong phú Nôm. Khác với phú chữ Hán, ở phú quốc âm, các tác giả không cần thể hiện mình trong vai trò bề tôi có trách nhiệm ca ngợi vương triều. Họ sáng tác chủ yếu vì hứng thú cá nhân. Vì thế, nếu phú chữ Hán khi nghị luận thường hướng đến vua vì mục đích phúng gián, thì phú Nôm cúi xuống quan tâm đến những vấn đề nhân sinh, những tâm tình bình thường song đáng trân trọng của người bình dân. Tác giả phú chữ Hán có thể tự phân thân thành nhiều dạng như nhân vật khách, đạo sĩ, tập thể bô lão, hoặc ẩn sau các biểu tượng như hoa sen, gươm thiêng, ngôi sao để bày tỏ nỗi lòng, song bao giờ họ cũng bảo đảm cho hình tượng giữ được cái đẹp văn chất tương xứng. Trong khi đó, ở phú Nôm giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII, hiện tượng các nho sĩ mượn lời giai nhân để bộc bạch lý tưởng chính trị trở thành hiện tượng phổ biến với những Tần cung nữ oán Bái công văn (Đặng Trần Thường), Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng (tương truyền của Lê Quý Đôn), Hồng nhan bạc phận phú (Khuyết danh), Lắm mối tối nằm không phú (Khuyết danh),v.v. Cũng là “chở đạo”, “nói chí” nhưng các cuộc đối thoại ở phú Nôm đã khác phú chữ Hán nhiều lắm. Thử xem một đoạn đối đáp trong Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng (Lê Quý Đôn?):

Trình mẹ có hay;

Nghĩ con không dại.

Phải kén tấm chồng;

Mới yên phận gái.

Vậy có thơ rằng:

Nhân duyên trời chửa định nơi nao;

Nông nỗi con nay mẹ tính sao?

Con muốn sớm chồng, con lại sớm;

Kẻo người lấy hết, chổng mông gào.

Mẹ già nghe nói; khuyên con ngọt ngào:

Hễ nhà con gái, lắm kẻ ra vào.

Biết đâu là duyên ưa lá thắm;

Để mong cho phận đẹp má đào.

Vội chi mà vội;

Bao giờ thì bao.

Cũng mặc chỉ Tấn, tơ Tần, cứ giữ mình vàng giá ngọc;

Cho đáng kẻ chồng loan, vợ phượng, lọ là chào khách bán rao.

Há lo đâu có ế chi chồng, giỗ muộn càng nhiều quả chắc;

Cũng nên nghĩ đương xuân chi gái, ngọc lành phải đợi giá cao.

Tác phẩm một mặt vẫn giữ cách nói ẩn ý – cung cách quen thuộc của kẻ sĩ khi thể hiện lý tưởng sống – nhưng mặt khác, lại đầy tính giễu cợt khi mỉa mai cái đẹp hình thức này bằng việc thay đổi hệ thống những miêu tả có tính tượng trưng. Những vấn đề nghị luận chính trị to tát như trung với ai, ở hay về, giờ đây từ vị trí trung tâm tác phẩm trở thành lớp nghĩa thứ hai. Tiếng than “hồng nhan bạc mệnh” hay những phát ngôn đòi hỏi quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi mới là tầng nghĩa thứ nhất của tác phẩm và tầng nghĩa này tự thân nó cũng có ý nghĩa độc lập. Cố nhiên, đi cùng với hình tượng nghệ thuật mới lạ sẽ là những triết lý phóng khoáng, đậm đà tinh thần nhân văn, tạo thành cơ sở để triết lý, nghị luận, kiểu như:

Chắc thanh tĩnh, tu đà nên Phật;

Dẫu chính chuyên, thác cũng ra ma.

(Lê Quý Đôn?, Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng)

Nếu có phải tuổi chừng đôi chín, lúc ấy hoa chào nửa miệng, liệu từ khi sen ngó đào tơ;

Nào có hay mai đã bảy ba, bây giờ bóng xế ngang đầu, cho đến nỗi ong chường bướm chán.

Vậy có câu rằng: Tiếc thay trong giá trắng ngần, đến phong trần cũng phong trần như ai chi thán.

(Khuyết danh, Hồng nhan bạc phận phú)

Chính tinh thần nhân văn này đã để cho một hệ thống đại từ xưng hô đa dạng với những tớ, ông, đây, đấy, mẹ, con…có cơ hội xuất hiện trong phú Nôm. Điểm đặc biệt nhất trong hệ thống đại từ nhân xưng ở phú Nôm là sự hiện diện đột xuất đầy “can đảm” của đại từ “tôi” trong Gào chồng phú, Lẳng lơ phú:

Cùng thì má phấn;

Cùng bạn lưng ong.

Người sao đã có;

Tôi vẫn còn không?

(Khuyết danh, Gào chồng phú)

Chẳng một mình tôi, Đồng Sớm Thanh Lâm đó nọ;

Cũng đôi ba kẻ, lầu hồng gác tía hơn ai.

(Khuyết danh, Lẳng lơ phú)

Xưng danh như thế là để nói về một bản ngã rất tự tin như một cá thể đơn nhất ý thức về quyền sống và đòi hỏi được tôn trọng. Trong văn học trung đại, cái tôi nếu được biểu hiện ra ở đại từ nhân xưng, cũng chỉ mới dừng lại ở cái “tớ”, “ông” chứ chưa vươn tới thế giới của cái “tôi” hiện đại. Chính vì vậy, sự xuất hiện của chữ “tôi” ở đây trở nên rất có ý nghĩa. Mặc dù hiếm nhà nho nào dám tự nhận tiếng xưng “tôi” ấy về mình mà chỉ dám sử dụng hình thức trữ tình nhập vai để đặt nó nơi miệng một nhân vật tưởng tượng, nhưng ở chừng mực nhất định, điều này chứng tỏ cái tôi cá nhân đang ngày càng được ý thức trọn vẹn hơn. Từ nửa sau thế kỷ XVIII, tiếng nói của người phụ nữ làm sống dậy hơi thở tình yêu trên văn đàn. Nhiều tác giả nữ như Đoàn Thị Điểm, Ngọc Hân công chúa, Bà huyện Thanh Quan… không chỉ tham gia sáng tác mà còn tạc lại tên tuổi vào lịch sử văn học bằng những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, Hồ Xuân Hương đã gây nên một chấn động lớn trong tầm đón nhận của thế hệ độc giả đương thời khi đưa cái nhìn táo bạo và cách thể hiện nghịch ngợm về quan hệ yêu đương rất trần thế, bản năng vào tòa kiến trúc thơ luật đường bệ. Nhà thơ tài hoa ấy là ai, vấn đề này có thể còn gây nhiều tranh cãi, nhưng phong cách nghệ thuật mang tên “Xuân Hương” lại là sự tồn tại không thể phủ nhận. Chính trong bối cảnh chung này, việc xưng danh “tôi” được trao quyền lại cho nữ giới. Nguyên nhân trước hết là bởi khi các tác giả đã che giấu thân phận thật sự của mình, họ có thể tìm thấy nhiều tự do sáng tạo hơn trong cái khuôn trung đại. Song bên cạnh đó còn chăng một nguyên nhân nữa liên quan đến vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội?

Người phụ nữ Việt Nam vốn ở trong một địa vị “oái oăm” (chữ dùng của Từ Chi), có vẻ thấp song lại rất cao. Trần Quốc Vượng miêu tả họ là những “phụ nữ tiểu nông (kiêm tiểu thương “chạy chợ”) có ý thức rõ rệt về cá tính của mình(3). Mặc dù giáo điều Nho học đã tán phát sâu rộng vào đời sống người bình dân, biểu hiện thành quan niệm “Thuyền theo lái, gái theo chồng”, nhưng sức phản kháng lại với trật tự chồng trước vợ sau luôn hiện diện như một lực đối kháng trong văn học dân gian. Có thể bắt gặp đại từ “tôi” giữ chức năng chủ ngữ ở nhiều câu ca dao:

Đất xấu nặn chẳng nên nồi,

Anh đi lấy vợ cho tôi lấy chồng.(4)

hay

Bồng bồng cõng chồng đi chơi,

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.

Chị em ơi cho tôi mượn cái gàu sòng,

Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.(5)

Kết quả là theo chân “cái tôi”, nhân sinh quan của người bình dân đường hoàng chiếm một vị trí quan trọng trong thể loại sang trọng như phú. Ví như trường hợp khái niệm cương thường chẳng hạn. Tam cương và ngũ thường là cách nho gia bảo vệ quyền lợi của triều đình quân chủ xét ở tầm quốc gia và chế độ phụ hệ xét trong phạm vi gia đình. Đường vec – tơ chỉ hướng trong ba mối quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ ấy là đường một chiều, chỉ có phụng sự, không có phản kháng. Song dân gian ta lại nói khác. Người phụ nữ có quyền đòi hỏi:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,

Bõ công trang điểm má hồng răng đen.(6)

Khi hai vế “lấy chồng cho đáng tấm chồng” và “hai chữ cương thường sao cho xứng đáng” được xếp ngang hàng theo quan hệ đẳng lập, thì đó chính là hình thức lô – gic cho biết hai khái niệm đồng nhất với nhau. Có nghĩa trong quan hệ vợ chồng, người phụ nữ không gánh lấy một chữ “tòng” thụ động, vô điều kiện. Họ có quyền thực hiện hai chữ “cương thường” một cách chủ động hơn qua việc tự tìm kiếm đối tượng:

Chị em ơi! Lấy chồng cho đáng tấm chồng, cho bõ lúc nghiền phấn sáp, lúc áp hương hoa, hai chữ cương thường, sao cho xứng đáng;

Quân tệ nhỉ! Lấy vợ chỉ biết mặt vợ, chẳng nhớ ai bế anh nhi, ai bồng xích tử, ba năm trứng nước, bao quản đắng cay.(7)

(Khuyết danh, Răn đời phú)

Có thể nói, nhìn từ phương diện triết lý, nghị luận, điều tác giả phú Nôm hướng đến nào phải chỉ thuộc phạm vi chính trị hay đạo đức. Những khát khao yêu đương rất trần thế cũng có thể trở thành nội dung nghị luận chính. Nếu giá trị lớn nhất của phú chữ Hán trong nội dung nghị luận là ở điểm nhìn quy tụ về tầm vóc lớn lao của “nước”, thì phú Nôm hòa cùng cuộc sống đời thường, sáng lên vẻ đẹp tươi tắn của tinh thần nhân văn, và về sau, cả nhân bản. Đấy cũng là đóng góp riêng đáng trân trọng của phú quốc âm cho sự phát triển của ý thức cá nhân trong văn học dân tộc.

Tóm lại, phú từ một thể loại văn chương bác học cao sang thuộc phạm vi cung đình, trên hành trình được Việt hóa, đã thâm nhập vào đời sống ở dân gian, trở nên duyên dáng và đượm màu trần thế khi tập trung miêu tả một cách hồn nhiên, sinh động những sinh hoạt thuộc về nhu cầu rất con người. Trào lộng trở thành âm điệu chủ đạo. Cười, ở nội dung này, không phải để mỉa mai, mà để phản kháng lại sự cấm đoán nghiêm khắc của Nho giáo đối với khát vọng được sống, được yêu – những gì vốn thuộc về bản chất của nhân loại. Nếu mang bộ phận này của phú quốc âm đặt bên cạnh thơ Nôm Đường luật thì “Hồ Xuân Hương” không còn là hiện tượng đơn độc. Đó chính là bằng chứng thuyết phục về sức sống mãnh liệt của yếu tố “Nôm” trong quá trình Việt hóa các thể loại du nhập từ bên ngoài như thơ và phú.

Chú thích:

(1) Kết thúc Ngã ba Hạc phú, Nguyễn Bá Lân đã ca ngợi chuyện yêu đương trong đời sống con người là “cực nhân sinh chi khoái lạc”.

(2) Tất cả phú Nôm trong bài viết được trích từ: Vũ Khắc Tiệp, Phú Nôm, Vĩnh – Hưng – Long thư quán xb, H, 1931, 2 tập.

(3) Ngoài ra chúng tôi có tham khảo thêm văn bản trong: Phong Châu, Nguyễn Văn Phú (1960), Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

(4) Trần Quốc Vượng 2003. Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Hà Nội: Văn học, tr.82.

(5) Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (đồng chủ biên) 1995. Kho tàng ca dao người Việt, 4 tập, tập 2. Hà Nội: Văn hóa Thông tin, tr.744.

(6) Sđd, tr. 474.

(7) Sđd, tr.1264.

 


* ThS, Giảng viên Khoa Ngữ Văn, Trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM

Bài đã đăng Tạp chí văn học, số 1, tháng 1, 2013.

 
VI THÙY LINH THI SĨ ÁI QUYỀN (TS. Chu Văn Sơn) PDF. In Email
Thứ ba, 25 Tháng 9 2012 03:57

 

Vi Thùy Linh

1. Đ được đón đi

Tôi vẫn cho rằng mỗi nghệ sĩ đích thực phải là hiện thân của một giá trị sống, giá trị người nào đó. Bằng tiềm hướng nhân bản, bằng văn hóa và trải nghiệm trường đời, người ấy đã bừng ngộ về giá trị sống, giá trị người kia. Rồi cứ thế suốt đời dồn toàn bộ tâm huyết và nghệ thuật của mình để làm sáng danh cho giá trị ấy, dù không phải lúc nào cũng ý thức kĩ về nó. Đấy là gốc rễ của mọi cái mới chân chính trong nghệ thuật. Thiếu điều này, cách tân chỉ còn là những loay hoay vụn vặt về hình thức. Tuy nhiên, cái mới lại thường gây hấn, gây sốc đối với tập quán. Nó không dễ được chia sẻ ngay, tiếp nhận liền. Có khi còn bị ngờ vực, dằn hắt nữa. Nhưng, đã làm nghệ thuật thì không thể khác! Chỉ có những kẻ dám dấn thân mới chịu nổi tai ách này. Khuôn mặt nghệ thuật của nghệ sĩ, nghiệt thay, lại được định dạng bởi chính những điều ấy. Sáng tạo và đày ải, lấy khổ làm sướng, nuốt buồn nhả vui, khó chịu thì chịu khó… chính là nghệ thuật vậy.

Đọc thêm...
 
«Bắt đầuLùi12345678910Tiếp theoCuối»

Trang 7 trong tổng số 15

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: "RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/ UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA" (TRẦN QUỐC TOÀN)

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: “RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA” Trần Quốc Toàn Phó giáo sư - Tiến sĩ khoa học Bùi Mạnh Nhị từng có trang giáo...

Thông báo về việc hỗ trợ khai thác nguồn học liệu trực tuyến trong thời gian giãn cách

THÔNG BÁO V/V HỖ TRỢ KHAI THÁC NGUỒN HỌC LIỆU TRỰC TUYẾN TRONG THỜI GIAN GIÃN CÁCH   Nhằm hỗ trợ Quý Thầy/Cô, các Anh/Chị sinh viên, học viên, nghiên cứu...
 

Học vụ

Thông báo V/v Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN ĐÓNG HỌC PHÍ, CHI PHÍ SINH HOẠT ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM (ÁP DỤNG TỪ KHOÁ TUYỂN SINH NĂM HỌC 2021 - 2022,...

Thông báo V/v Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên hệ chính quy Năm học 2021-2022

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM HỌC PHÍ CHO SINH VIÊN HỆ CHÍNH QUY NĂM HỌC 2021 - 2022     ...
 

Đoàn TN - Hội SV

THÔNG BÁO VỀ HỘI THI NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐHSP TP. HCM NĂM HỌC 2008 - 2009

1/ Mục đích ý nghĩa: Trường ĐHSP là trường có nhiệm vụ hướng nghiệp dạy nghề rất rõ ràng. Đồng thời với việc được trang bị kiến thức về khoa...

 BÀI MỚI NHẤT