Trần Hoàng (Hoàng Trần) XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN QUÝ VỊ ĐÃ ĐẾN VỚI WEBSITE... |
|
|
Hiển thị tin focus
(NHÂN FACEBOOK NHẮC NHỞ)
Có lẽ không người Việt nào không ao ước được một lần đến mũi Cà Mau, địa đầu Tổ...
Trực tuyến
Hiện có 1230 khách Trực tuyến
Văn xuôi
Thứ tư, 06 Tháng 5 2015 08:42 |
TẢN MẠN NHỮNG CON ĐƯỜNG PHỐ NÚI[1]
Về Pleiku, tôi vẫn hay lái xe máy chạy lòng vòng. Mỗi con đường biết bao kỉ niệm. Xưa chỉ chạy hết Lê Lợi ra ngã ba Hoa Lư, vòng lên Phan Đình Phùng, gặp Lý Thái Tổ rẽ trái tới Hoàng Diệu (nối dài), rồi lại rẽ trái xuôi Hoàng Diệu về vòng xoay Diệp Kính là xem như đã đủ một vòng nội ô Phố núi! Dọc ngang dài ngắn bên trong thì thường đi lại cũng chỉ mấy đường quen: Lê Văn Duyệt (Trần Phú), Quang Trung, Hai Bà Trưng, Phan Bội Châu, Phó Đức Chính (Nguyễn Văn Trỗi), Nguyễn Thái Học và quanh khu chợ Mới (nay là Trung tâm Thương mại Pleiku)…
Với cư dân Pleiku cũ, con đường Hoàng Diệu (nay là Hùng Vương) hẳn không ai không nhớ. Con đường này chạy từ cầu Hội Phú, lên tới Lý Thái Tổ. Đó là cái xương sống của thị xã cao nguyên, cửa ngõ dẫn vào tỉnh lị. Đó cũng là con đường đến lớp của rất nhiều người, nơi tọa lạc của các trường: Tiểu học Vĩnh Hưng (tư thục), Nam Tiểu học (công lập), Tuyên Đức, Trung học Pleiku, Thánh Phao Lồ; chưa kể, học sinh các trường Bồ Đề (đường Sư Vạn Hạnh), Minh Đức (đường Lê Lợi) nhiều người đi học cũng qua đây. Thị xã nhỏ, học sinh đi bộ đến trường là chính. Trước năm 1975, đường Hoàng Diệu chỉ có đoạn giữa - khoảng từ ngã ba Diệp Kính đổ lên Bưu điện - là sầm uất, tấp nập; sự náo nhiệt đó kéo lan qua vòng cung lân cận: Phan Bội Châu – Quang Trung – Phan Châu Trinh và Lê Lợi. Thả bộ lang thang thường cũng chỉ trên mấy đường này. Nhà tôi hồi ấy nằm trong khuôn viên Ty Công chánh (nay là Sở Giao thông Vận tải), sáng sáng tôi quần xanh áo trắng đi bộ trên đường Trịnh Minh Thế (nay là Trần Hưng Đạo) dưới hai hàng cây rợp lá (có mùa, sâu lông còn rơi lộp bộp phải vừa chạy vừa huơ tập vở trên đầu) rồi rẽ phải Hoàng Diệu đi một hồi lâu mới đến trường. Còn nhớ, trong lạnh buốt ban mai, bóng chúng tôi hòa lẫn sương mù, cách nhau vài bước đã không nhìn rõ mặt.
|
Đọc thêm...
|
|
Thứ ba, 21 Tháng 2 2012 02:53 |
1. Hình như mỗi người đều có một nơi để về. Nơi để về, ắt phải là nơi được sống trong tình yêu thương vô hạn, là nơi lấy lại được sự cân bằng cho trí não.
Với tôi, Pleiku là nơi để trở về.
Mỗi năm, ít nhất một lần. Chưa kịp về là nhớ quay nhớ quắt. Không được nhiều ngày thì dăm ba bữa, miễn là có trở về.
Làm sao tôi không trở về Pleiku được khi suốt thời tuổi trẻ tôi gắn với đất này? Nhà tôi xưa ở đó. Kia là con đường rợp lá ngày ngày đưa tôi đến lớp. Kia là dốc phố thân thương chiều chiều tôi đứng đợi… Trường xưa vẫn đây mà thầy cô bè bạn đã mỗi người một ngả. Chỗ này ngày xưa là… mà nay đã thay đổi mất rồi.
Làm sao tôi có thể không về khi nửa đêm chợt rào rào mưa núi báo hiệu sắp một mùa quỳ vàng rực rỡ, và mai ra, mưa bụi sương mù bỗng giăng đầy lối phố như hiểu được nỗi đợi mong thầm kín của tôi?
Làm sao tôi không về Pleiku được khi trên này đất trời luôn thông thoáng, mây gió thênh thang, còn dưới kia xe cộ phố phường hoài đẩy xô chen chúc?
Làm sao lại có thể không về khi tuy chẳng phải là quê cha đất tổ mà ai đã sinh sống ở Pleiku cũng đều xem nơi đây là quê quán của mình?
2. Sao tôi không về được, khi Pleiku có nhiều lối để về? Đường không, mỗi ngày 2 chuyến, Sài Gòn – Pleiku chỉ mất một giờ năm phút. Đường bộ, xe đời mới chất lượng cao ghế ngồi ghế nằm giường nằm đủ cả. Sài Gòn lên đây khoảng 10 tiếng đồng hồ qua Bình Dương, Bình Phước, Đắk Nông rồi Đắk Lắk theo Quốc lộ 13, 14; lên xe ngủ một đêm là đến. Nếu đi Quốc lộ 1, từ ngã ba Cầu Bà Di lên Pleiku chỉ chừng hơn 3 tiếng (166 km). Từ Pleiku, nếu muốn, tiếp lên Kon Tum cách khoảng 50 cây số, qua Lào bằng cửa khẩu Bờ Y ở huyện Ngọc Hồi, ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia. Còn nếu đi từ Phú Yên, thì theo Quốc lộ 25.
3. Những lần đi dạy các lớp Từ xa cho Đại học Huế ở miền Tây miền Đông, tôi luôn luôn nghe các thầy cô đồng nghiệp ngoài ấy dành cho Pleiku rất nhiều thiện cảm. Theo cảm nhận của tôi, các vị ấy xem việc được lên dạy ở Pleiku là một điều may mắn, nếu không nói là ưu ái.
Có lẽ giải thích về sự hiếu khách của người dân Pleiku cũng dễ. Nơi đây vốn là vùng đất của lưu dân tứ xứ. Như một tất yếu, những cộng đồng này, nếu không có sự cởi mở, hoà đồng thì khó lòng mà tồn tại, phát triển. Cái lối sống ấy đã thấm sâu vào đời con đời cháu, thành văn hoá của vùng.
Khách đến đây còn rất mong có ngày trở lại, huống nữa là tôi.
4. Về với Pleiku, sáng ra tôi chọn một góc quán cà-phê, rồi tụ bạn bè. Uống cà-phê ở cao nguyên là nhất. Co ro với cái rét tinh mai, nhắp một ngụm cà-phê thơm lựng. Ai có việc thì đi, không thì ngồi lại. Một ly cà-phê chẳng biết mấy ấm trà. Đủ mọi chuyện đông tây trời đất. Có chuyện nghe mãi cũng nhàm. Có chuyện nghe xong cười ra nước mắt.
5. Làm sao tôi có thể không về Pleiku được khi mà quanh năm bạn bè réo gọi, mới đặt chân lên thì bạn đã đến tìm và rồi suốt sáng thâu đêm say men cùng lời thơ tiếng nhạc? Lần nào cũng vậy. Chỉ một đêm thôi mà cả mấy mươi năm bùng dậy. Những câu chuyện ngày xưa. Những bài hát ngày xưa. Biết bao là kỉ niệm theo về ở cái tuổi trên dưới 60. Những mái đầu hoa râm mà sao thơ trẻ lạ.
6. Pleiku như vậy, ai có thể không về?
Pleiku, 17-7-2010
HOÀNG TRẦN
|
Đọc thêm...
|
Thứ hai, 20 Tháng 2 2012 17:21 |
THẦY TÔI*
* TRẦN HOÀNG
Vậy mà đã 25 năm, tôi - cậu học trò nghèo vừa học xong tiểu học trường quê mang tâm trạng kẻ ly hương bỡ ngỡ bước chân vào ngôi trường thành phố. Tất cả đều xa lạ. Còn là một cậu bé, tôi đã phải triền miên trong nỗi buồn rất thật. Mấy năm cuối cùng ở quê, vừa hồi cư thì lại tản cư, nay học tạm trường này, mai học tạm trường khác. Thầy cô, bạn bè dần dần ly tán mỗi người một ngả. Cái khí hậu cao nguyên lúc ấy sao mà phù hợp với lòng tôi!
Ngày binh lửa dấy tràn nơi xóm nhỏ Lũy tre già gục mặt khóc măng non Bông bụt đỏ xác nhàu vương thuốc súng Chưa biết gì sao nghẹn ứ đau thương Tôi bỏ xứ tha phương từ độ ấy Lòng rơi theo hoa sứ rụng sân trường.
(Bên dòng sông Vệ)
Cảnh ngộ tâm trạng tôi đã vậy, mà mỗi sáng bước chân đến trường lại chẳng thấy vui đâu, chỉ thấy mình trở thành nạn nhân cho những trò cười. Chẳng là, cái giọng Quảng đặc sệt của tôi có gì đó khiến cho đám bạn học thiếu trò đùa nghịch luôn nhại tiếng giễu cợt tôi một cách thích thú. Tôi phản ứng thì bị khiêu khích, bị trêu chọc nhiều hơn. Mà tôi không muốn mở miệng cũng không được : phải đọc bài, trả lời theo yêu cầu của thầy cô. Một lần, chịu không nổi, tôi vừa khóc vừa thưa với thầy Ng. trong giờ ra chơi. Thầy không hề thông cảm với tôi thì chớ lại còn nhăn nhó bảo tôi: “Sao ba mẹ cậu không đặt tên Lệ cho cậu mà lại đặt tên Hoàng !”. Tôi như bị dội nước lạnh vào người và dĩ nhiên lại khóc nhiều hơn trước. Lần khác, tôi vừa thưa cô Tr. thì chính cô lại nhại giọng của tôi rồi bật lên cười, khiến tôi vừa bất bình lại vừa xấu hổ. Tôi như người không có điểm tựa. Sao thầy cô mình lại có thế như thế chứ! Thất vọng, tôi không còn thiết thưa gửi nữa. Và có lần tôi đã phải đánh nhau với tên bạn đầu têu trong đám!
Chính lúc ấy thì Thầy đã dang tay cho tôi nương tựa. Chỉ mỗi một mình Thầy, ngườì thầy giáo dạy Văn của tôi năm Đệ thất. Thấy đã rầy la các bạn và an ủi, động viên tôi. Từ đó, mỗi khi có tiết học của Thầy là thế nào tôi cũng được Thầy hỏi chuyện.
Hồi ấy, tôi tập tễnh làm thơ - như một cách tự làm vơi bớt nỗi buồn. Tôi thường mang những bài thơ vừa ráo mực của mình đến để Thầy xem và góp ý.
Nhưng niềm vui gần gũi Thầy cũng chẳng được dài lâu. Chưa trọn một học kì, vừa kịp thoát được những trò đùa tai quái, tôi lại một lần nữa làm loài chim di trú. Do sinh kế, mẹ tôi lại dắt díu hai con rời Đà Lạt mộng mơ đến định cư ở Pleiku đất đỏ. Lại thêm một nỗi buồn oà ngập trong tôi. Buồn, tôi chỉ biết gửi vào những vần thơ non dại. Và tôi lại gói ghém những bài thơ, gửi qua đường bưu đến cho Thầy. Lá thư nào của tôi cũng được Thầy hồi âm nhanh chóng. Tôi cảm động biết chừng nào. Vô hình trung Thầy trở thành người thân thiết nhất với tôi. Bên cạnh mỗi bài thơ của tôi đều có những dòng chữ nhận xét tỉ mỉ của Thầy. Nhờ vậy, tôi kịp thời nhận ra những non nớt vụng về ở từng câu chữ, và những kết quả đầu tiên tôi cũng đã thu hoạch được: thơ văn của tôi được đăng trên báo thiếu nhi ở Sài Gòn. Tôi nhận những tờ báo biếu gửi về với niềm tự hào chính đáng: Tôi đã không phụ công Thầy.
Bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in những lời Thầy khuyên dạy trong việc sáng tác. Vâng, làm thơ khó thật, thưa Thầy. Mà cái khó nhất là giữ được lòng thơ. Thầy đã không chỉ bảo ban em về vần điệu, ý tứ mà còn nhắc nhở em về tinh thần lạc quan, tin tưởng, về những nhân cách lớn. Hồi đó, trong thư viết cho em, Thầy thường dẫn thơ Khuất Nguyên, nhưng làm sao em hiểu nổi : ”Thiên hạ đều đục chỉ có mình ta trong Thiên hạ đều say chỉ có mình ta tỉnh”, ”Chỉ thở dài mà gạt lệ a Thương nhân dân còn khổ nhiều”… Em chỉ biết ghi nhớ lời Thầy, tâm niệm. Để đến tuổi trưởng thành, những tư tưởng lớn lao ẩn tàng phía trong những con chữ kia em mới dần dần hiểu được. Và em lại càng thấy mình kính trọng Thầy biết chừng nào. Phải chăng, nhờ những tâm hồn lớn của cổ nhân hun đúc, sự thấm nhuần những tư tưởng nhân bản sâu sắc mà Thầy luôn trân trọng, thông cảm đối với những số phận không may ? Em phải làm sao để không phụ công Thầy ?
Bây giờ, tôi lại đi trên con đường mà Thầy đã đi qua. Dường như trong nghề nghiệp của mình, tôi thấy học được từ Thầy nhiều hơn cả. Ngày xưa là những bài học về làm văn, về tu dưỡng. Giờ đây, là những bài học về sư phạm, về lòng thương yêu, về sự làm việc tận tụy, giàu trách nhiệm. Tôi phải làm sao để không phụ công Thầy? Tôi có đến được với học trò mình như ngày xưa Thầy đã đến với tôi? Tôi có giữ được ngòi bút của mình như những lời Thầy dụng tâm dạy dỗ?
Cầu mong ở một nơi nào đó, Thầy tôi vẫn luôn luôn mạnh khỏe.
Sài Gòn, 1991
* Bài đã in trên Tuổi Hồng, tuyển tập 8, NXB Trẻ TP HCM, tháng 11- 1991, tr. 04.
|
Chủ nhật, 19 Tháng 2 2012 17:22 |
PLEIKU KÝ ỨC*
HOÀNG TRẦN
Xanh mãi nhé, con đường giăng lá hẹn
Của một thời bàng bạc khói sương…
Pleiku. Cái thị xã miền cao với những ngọn đồi chơ vơ phủ màu da đỏ. Cái thị xã ai đã từng một lần gặp gỡ là mang theo nỗi nhớ vô bờ. Pleiku không cuốn hút con người bằng cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng. mà ngoài cái hoành tráng miền núi nói chung là dáng vẻ bụi bụi, phớt đời của những chàng giang hồ lữ thứ. Cả một vùng trời đất thênh thang, những dưỡng chất ba-dan dư dả, qua một mùa mưa, người và cây cỏ tha hồ thay da đổi thịt. Pleiku, như một nhà thơ đã viết: Phố xá không xa nên phố tình thân Đi dăm phút đã vế chốn cũ. Cả thị xã loanh quanh giữa một vòng tay thân ái. Đã gặp nhau, sẽ trở nên bạn hữu một sớm một chiều.
Pleiku. Không có đâu những rừng thông típ tắp, những sắc hoa rực rỡ khoe màu. Chỉ lẻ loi một vái cây thông đứng chơ vơ giữa bụi mù hay mưa dầm buốt cóng, cái cây thông đã được Nguyễn Công Trứ tạc tượng bằng thơ : Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Là những rừng hoa quỳ vàng dân dã chạy dọc sau mưa hai bên quốc lộ. Là những ngày ẩm ướt lê thê, mù trời tối đất, bạn bè quần tụ nhau bên tách cà-phê thơm nức. Không ai chờ mưa tạnh, có việc hãy cứ ra đường, bước co ro trong trời bão rớt. Bằng không, hãy ngồi lại, lặng yên mà nhâm nhi cái buồn mưa núi. Ngày ấy, đầu những năm bảy mươi, những chàng trai tứ xứ đã tấp giạt lên đây, quần áo tóc tai nhuốm một màu nâu đỏ. Có lẽ chẳng ai quên những tên quán, tên phố, tên trường: Dinh Điền, Văn, Băng, Kim Liên, Vị Thủy……… Hoàng Diệu, Phan Bội Châu, Diệp Kính … Minh Đức, Bồ Đề, Pleime trường nữ… Những thắng cảnh Biển Hồ, Suối Dâu, những mái nhà sàn, và khu Biệt Điện. Còn, còn nữa... Mỗi người đều có riêng một vài trong số những tên trên để mãi mãi ghi vào ký ức
Pleiku. Khi xe đã lên đèo, người se se lạnh... Ồ, bầu trời, sao bầu trời lại gần ta đến vậy. Tưởng như với tay lên là chạm phải mây rồi. Nhưng chẳng phải mây đâu, đó chỉ là sương mù và khí núi. Những dải lụa trắng quanh năm lượn lờ trên những dãy núi xa xanh. Đồi nối tiệp đồi. Lác đác ẩn hiện một vài buôn làng ngoài khung cửa kính. Thỉnh thoảng xuất hiện những người thiểu số lưng mang gùi hay địu con đang lom khom leo dốc. In bóng lên nền trời là một vài cây kơ-nia bóng cả. Chỉ khi tầm nhìn bị giới hạn, những vườn cây và những khu nhà vách gỗ san sát hiện ra, ấy là bắt đầu đường vào thị xã. Đến đây, bạn sẽ có tâm trạng của một khách bộ hành đang lỡ độ đường chợt bắt gặp những hàng quán đơn sơ. Phố núi đất ba-dan là vậy. Nhưng hãy làm bạn một vài người, hay sống một thời gian. Sẽ nảy sinh một tình yêu đến lạ.
Pleiku. Có một chất gì rất văn nghệ, rất riêng. Thị xã vốn buồn, chiều xuống, đêm tới càng buồn khôn tả. Nhớ chiều Pleiku, tôi nhớ tới câu thơ Kim Tuấn : Buổi chiều ở Pleiku Có cây thông già đứng lên cùng bụi mù. Đó là chiều Pleiku những năm tháng chiến tranh. Bây giờ, chiều xuống, lại có những chàng trai đứng ngẩn ngơ, nơi góc phố: Áo ai phơ phất đôi tà trắng. Trắng cả hồn anh lúc cuối chiều… (Cao Thoại Châu). Và khi đã lang thang trên những hè phố vắng, dưới hàng cây xao xác, trong hiu hắt ánh đèn đường, giữa mênh mông sương khói, thì lòng sao khỏi dâng lên những xúc cảm diệu kỳ? Lúc ấy, chính là lúc bước chân được dìu đi bằng tiếng nhạc vang ra từ những quán cà phê nồng ấm bên đường. Rồi ngẫm lại, Vũ Hữu Định quá tài hoa khi viết về Pleiku trong Còn chút gì để nhớ: Phố núi cao phố núi đầy sương Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn…
Pleiku, nắng bụi, mưa bùn. Pleiku, Pleiku là như vậy đó. May mà có em.
Sài Gòn, những ngày mưa tháng 6.1992
* Bài in trên Mực Tím, số 66, ngày 01-7-1992, tr. 12 với nhan đề Pleiku nắng bụi mưa bùn.
|
Chủ nhật, 19 Tháng 2 2012 17:20 |
TRẦN HỮU NGƯ:
“THÚNG MỦNG RỔ RÁ” VÀ…
(Thay lời giới thiệu)
Tạp bút hay tạp văn là tên gọi của “một loại tản văn có nội dung rộng, hình thức không gò bó, bao gồm những bài bình luận ngắn, tiểu phẩm, tuỳ bút, v.v…”1. Đó quả là một loại văn kỳ thú. Nó giúp ta ngồi một nơi mà vẫn nghe ra đủ mọi vui buồn sự thế. Nó khiến ta đọc văn mà cứ như đang nhẩn nha, nhấm nháp chuyện đời! Và rồi, chợt một điều gì đó lẩn khuất trong các trang văn lại kết gắn ta cùng tác giả.
Ông già “hừng đông” của Trần Hữu Ngư với tôi cũng là vậy.
Tôi từng tiếp xúc văn Trần Hữu Ngư qua những tiểu phẩm của anh viết về âm nhạc, mà năm rồi NXB Văn Nghệ đã in thành tập Tội nghiệp Boléro. Nhưng thú thật, không phải người trong giới nên tôi ưa nghe tiếng đàn giọng hát rót thẳng vào tai hơn những lời bàn về âm nhạc. Chỉ đến một hôm kia, tình cờ bắt gặp những “thúng mủng rổ rá…” của Trần Hữu Ngư treo lủng lẳng trên một trang báo, tôi mới chăm chú với văn anh: “… Trong tôi lại hiện về những kỷ niệm nhạt nhoà, những nỗi nhớ đầy vơi, những tiếc thương vô hạn về những bến bờ, ruộng nương, rẫy bái xa xưa, tưởng chừng như không thể bắt gặp lại được, dù chỉ một lần. Nhớ ngày ấy mẹ tôi sàng gạo, sảy lúa, hái rau với những vật dụng bằng mây tre mà ba tôi đã tốn nhiều công sức để làm: chặt tre, bứt mây, vót nan, rồi cặm cụi ngồi đan, bện… Có lần tay ba chảy máu vì đốn tre, ba nói đùa với mẹ: “nhứt đốn tre, nhì ve gái”. Mẹ cười bẽn lẽn rồi bỏ đi!”. Rồi những hoa dâm bụt, vạn thọ, mai rừng… của Trần Hữu Ngư càng khiến văn anh thân thiết với tôi hơn. Quá khứ của anh, quê quán của anh, bếp lửa nhà anh, ba mẹ của anh, ngôi trường làng của anh.. cứ y như là của chính chúng tôi: “Khói của bếp chụm củi sao mà đáng yêu! Khói cay sè, khói chảy nước mũi, có đôi khi làm đỏ hoe con mắt, nhưng không ai giận khói! Khói của bếp lửa bay khắp nhà, bàng bạc một màu lam, toả ra từ những mái tranh, chòi rẫy, cứ là đà chầm chậm trong ráng chiều. Nhớ khói lam chiều là nhớ nồi cơm nóng hổi, nhớ dề cơm cháy vàng rụm và những con cá đồng nướng trui khô đét rồi cả nhà quây quần bên mâm cơm đạm bạc…”. Và dẫu không là người của biển, tôi cũng khó lòng dửng dưng trước “những đêm trăng sáng bên làng chài thơ mộng” của tuổi thơ Ngư: “ Trăng của biển và biển của trăng sóng sánh quyện thành một không gian yên ắng, chỉ còn nghe tiếng vỗ rất nhẹ của sóng biển chạm bờ và tiếng sột soạt của những con còng biển săn mồi…”.
Không chỉ hoài niệm, những thoáng buồn. Đến với Trần Hữu Ngư còn là đến với các giá trị nhân văn. Anh ca ngợi những cuốn sách, bản nhạc, giọng hát… đã chiếm ngự trái tim người. Anh chê bai mấy trò nhăng nhố. Anh gai mắt khi bắt gặp trong một vài khu du lịch sang trọng người ta bày lu chứa rác (Tội nghiệp cái lu), trên truyền hình trẻ em vừa hát vừa rập khuôn “lắc qua lắc lại” cái đầu (Bệnh “lắc đầu”). Anh chướng tai khi nghe phải “thứ thơ thịt cầy bảy món, lẩu dê với rượu ngọc dương, năm bảy người vỗ tay khen hay, rồi cho là tài năng mới, thơ mới, ngôn ngữ lạ” (Gặp thơ… làm ngơ!), những bài hát nhại lời dung tục (Nhạc cải biên)… Và còn có những khi…
Ông già “hừng đông” không tránh khỏi đôi lúc quá đà. Nhưng biết sao hơn, tạp bút mà! Với Trần Hữu Ngư, tôi chọn món khoai lùi, cá nướng. Có khi, cũng còn là vì những thiện ý của anh…
Sài Gòn, tiết Xuân Phân, năm Bính Tuất
______________________________________________________
* Nguyên văn bài đã in trong: Trần Hữu Ngư (2006), Ông già hừng đông (tạp bút), NXB Văn Nghệ, TP HCM, tr. 7- 11.
1 Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tuyển Sinh
|
Tuyển Dụng
|
Giáo Trình
|
Thư Viện Phần Mềm
|
Góc Cao Học
|
|