Vietnamese-VNFrench (Fr)简体中文English (United Kingdom)

Trần Hoàng (Hoàng Trần)
XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN QUÝ VỊ ĐÃ ĐẾN VỚI WEBSITE...
 

 

 

Hiển thị tin focus

CHỢT NHỚ CÀ MAU  

(NHÂN FACEBOOK NHẮC NHỞ) Có lẽ không người Việt nào không ao ước được một lần đến mũi Cà Mau, địa đầu Tổ...
 

VCD ca khúc

Trực tuyến

Hiện có 1557 khách Trực tuyến

webmail

Truy cập

WebLinks

Tìm kiếm

Tháng Năm 2024
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
29 30 1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31 1 2

album_hinh

Ngôn ngữ học và tiếng Việt
TRUYỀN THỐNG TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO... PDF. In Email
Chủ nhật, 19 Tháng 2 2012 17:12

TRUYỀN THỐNG TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO

QUA LỜI ĂN TIẾNG NÓI CỦA DÂN GIAN [*]

TRẦN HOÀNG

Trong tiếng Việt, chữ thầy thường được dùng để tôn xưng một số loại người đáng kính trọng trong xã hội. Cho nên, nhà tu, người dạy học, người làm nghề thuốc, những người được coi là có tri thức, kể cả những người hành nghề bói toán, xem địa lý xưa kia… đều được gọi chung là thầy.

Vậy từ thầy xuất hiện trong tiếng Việt như thế nào?

Trước hết, về nguồn gốc, từ thầy thuộc về lớp từ Hán cổ, đã du nhập vào tiếng Việt từ trước thời Tam quốc (1), khác với sự du nhập vào tiếng Việt từ đời nhà Đường bằng con đường sách vở.

Giở lại thư tịch cổ, tìm trong các văn bản xưa nhất mà hiện nay ta còn giữ được thì thấy: từ thế kỷ XIII, từ thầy đã song song tồn tại với sư, đều mang sắc thái tôn xưng. Trong bài phú Cư trần lạc đạo (2) của vua Trần Nhân Tôn (1258 – 1308), cùng với câu “Nguyền mong thân cận mình sư, quả bồ đề một đêm mà chín” còn có câu “ Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo”. Thầy ở đây được dùng để gọi nhà sư. Đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), lại thấy có câu “Thuỷ chung mấy vật đều nhờ chúa; Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy”(3). Thầy trong câu này chính là người dạy học, như Văn Tân – Đào Duy Anh đã chú giải: “Việc động tĩnh hành chỉ ở đời ai lại không học ở thầy là thánh hiền của nho gia (phu tử)” (4). Những cứ liệu này cho thấy, từ thuở xa xưa, từ “thầy” đã dùng để gọi chung một lớp người được xã hội tôn trọng. Và, trong cái thế tranh chấp lâu dài đầy bất lợi giữa một bên là yếu tố Hán – Việt được dùng một cách chính thống, “độc quyền” trong khoa cử, văn chương bác học, một bên là từ thầy vốn được xem là “nôm na” chỉ dùng trong dân gian thì từ thầy đã chiến thắng; nó không hề bị trung hoà hay âm tính hoá sắc thái biểu cảm trước những từ Hán – Việt đồng nghĩa như thường thấy, để khi nền Hán học bị suy vong thì nó liền được dùng rộng rãi trong mọi phong cách chức năng ngôn ngữ nhằm chỉ người dạy học nói chung, còn và những từ có yếu tố thì trở thành từ lịch sử hay thuật ngữ (5).

Sở dĩ như vậy chính là nhờ ở cái cơ sở hiện thực: truyền thống tôn sư trọng đạo lâu đời của dân tộc ta. Từ xưa, nhân dân ta đã rất tôn trọng người thầy – nhà giáo, và mối quan hệ thầy trò trên phạm vị toàn xã hội luôn luôn được đề cao, qua mọi thời kỳ lịch sử. Cho nên dù là từ dùng trong sách vở hay ở dân gian thì cũng đều chung một màu sắc biểu cảm. Có điều, trong trường hợp này, từ ngữ của dân gian sẽ có sức sống hơn.

Tuy trong tiếng Việt hiện đại, thầy cũng còn xuất hiện trong vài tổ hợp có sắc thái âm tính như thầy bà, thầy dùi, nhưng theo chúng tôi nghĩ, có lẽ đây chỉ là sản phẩm của xã hội sau này. Và dù cho có một vài tổ hợp như vậy, tự thân từ thầy ny nay vẫn không hề bị nhoè đi sắc thái nghĩa tôn xưng.

Lòng tôn sư trọng đạo ấy còn in sâu vào lời ăn tiếng nói của dân gian.

Đó chính là những lời tục ngữ, ca dao tôn vinh vai trò, vị trí của người thầy trong xã hội: Không thầy đố mày nên; Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy, mà này cả Thầy dở (thì) cũng đỡ láng giềng…

Đó là những thành ngữ, tục ngữ ngợi ca sự học: Người không học như ngọc không mài; Muốn hành nghề chớ nề học hỏi; Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học; Một kho vàng không bằng một nang chữ… Thời nào cũng vậy, vô sư, vô sách thì chẳng thể nên người. Cho nên, dù con học thóc vay chăng nữa, có bậc sinh thành nào mà chẳng cố? Phải cố, là vì: Chẳng cày lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu biết chữ? Chẳng học mà hay, chẳng cày mà có thì là điều cực kỳ vô lý vậy. Biết chữ là cơ hội để thoát khỏi tối tăm, nghèo đói. Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, đó là quan niệm của dân ta trong hoàn cảnh xã hội đề cao khoa cử. Không chỉ vậy, học còn là để làm người, một quan niệm vô cùng sâu sắc: Bất học vô thuật (không học không biết xử sự); Bất học diện tường (không học như đứng trước tường); Nhân bất học bất tri lý (người không học không biết lý lẽ)…

Chính từ lòng tôn sư trọng đạo mà nhân dân ta quan niệm: nhất tự vi sư, bán tự vi sư – một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy; có thờ thầy mới được làm thầy. Kẻ không biết kính trọng thầy thì bị nhân dân sỉ vả thậm tệ. Câu thành ngữ lừa thầy phản bạn là để mắng những kẻ vong ân bội nghĩa, đã gán cho kẻ nào thì kẻ đó chẳng bao giờ còn dám ngẩng mặt lên.

Và ngược lại, người thầy cũng phải luôn luôn xứng đáng là thầy, là tấm gương sáng cho học trò nhìn vào đó noi theo. Khi nào mà câu nói cửa miệng “thầy ra thầy, trò ra trò” còn tồn tại thì chừng đó trong lĩnh vực giáo dục vẫn còn lắm vấn đề. Bởi vì bản thân một chữ thầy từ thuở xa xưa đã hàm sẵn cái sắc thái tôn xưng; cha muốn cho con hay, thầy muốn cho trò khá cũng là lẽ thường tình vậy.

11.1997

(1) Xem: Nguyễn Tài Cẩn (1995): Giáo trình lịch sử âm tiếng Việt (sơ thảo), NXB Giáo dục, tr.16.

(2) In trong: Chữ Nôm: nguồn gốc – cấu tạo – diễn biến của Đào Duy Anh (1975), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 167-174.

(3) In trong: Nguyễn Trãi toàn tập của Viện sử học (1976), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.403.

(4) Sđd, tr. 720.

(5) Thậm chí, ny nay từ “sư phụ” còn mang sắc thái sỗ sàng khi sử dụng trong lời nói hằng ny (do giới giang hồ hay dùng).



[*] Bài đã in trong Kiến thức ngày nay, số 264, ngày 20-11-1997, tr. 10 – 12.

 

 

 
"Vầng trăng từ độ..." PDF. In Email
Chủ nhật, 19 Tháng 2 2012 17:10

Nhân mùa trăng trở lại, xin post một bài viết cũ (nhưng nếu chưa đọc thì vẫn mới), để các bạn vừa đọc vừa nhâm nhi trà bánh trung thu:

“VẦNG TRĂNG TỪ ĐỘ…”

* TRẦN HOÀNG

1. Để biểu đạt về cái khối sáng cao cao kia, không rõ ngày xưa ông cha ta đã dùng từ ngữ như thế nào? Bèn giở Quốc âm thi tập của cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) ra xem: “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng”, “Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt”, “Đêm thanh hớp nguyệt, nghiêng chén”… và: “Thưởng mai về đạp bóng trăng”,”Hiên mai cầm chén hỏi trăng”…

Vậy là đã rõ. Hồi thế kỷ XIV (do điều kiện tư liệu chưa thể truy lui hơn nữa), cũng giống như ta bây giờ, các cụ đã dùng cả nguyệt lẫn trăng, chưa kể cũng có khi dùng điển cố: “Nhà giao giãi bóng thiềm cung” (Tương truyền, Hằng Nga sau khi trộm thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ uống vào, thành tiên lên ở cung trăng và hoá ra con cóc, vì vậy thiềm cung dùng để chỉ cái bóng đen ở mặt trăng). Tuy nhiên, thời cụ Nguyễn Trãi, nguyệt (từ Hán Việt) có số lần xuất hiện cao hơn trăng (từ Việt) rất nhiều: 63/11 (kể cả hai chữ trăng dùng ở tên bài, có thể chỉ là của người sau đưa vào), và nguyệt thường hoạt động độc lập trong câu giống như bây giờ ta dùng từ trăng vậy… Điều này cũng dễ hiểu. Đây là thời kỳ mà chữ Hán được dùng làm văn tự chính thức của nhà nước phong kiến và trong thi cử. Ngoài sự hoạt động độc lập, nguyệt còn thấy xuất hiện trong những tổ hợp như minh nguyệt, nhật nguyệt, vừng nguyệt, phong nguyệt, bóng nguyệt, cối nguyệt (“Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt”), ngòi nguyệt (“Ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà”…) và trăng thì có bóng trăng, thuở trăng, bạn trăng, mặt trăng… Trong số này, có những tổ hợp ngày nay đọc lên vẫn còn gợi cho ta được nhiều mĩ cảm.

Đến đầu thế kỷ XIX thì tình hình đã khác.

Trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du (1766 – 1820), nguyệt chỉ còn xuất hiện 12 lần, kể cả khi hoạt động một mình lẫn trong tổ hợp. Trong khi đó, trăng có đến 38 lần xuất hiện. Như vậy là đến giai đoạn này, sự hoạt động của từ Hán Việt nguyệt đã bị thu hẹp lại trong một số ngữ cảnh nhất định, còn từ Việt trăng thì được tha hồ vùng vẫy, với những sáng tạo vô cùng phong phú, thú vị: “Vả trong thềm quế cung trăng”, “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”, “Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao”,”Vẻ non xa tấm trăng gần”,”Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời”, “Vừng trăng ai xẻ làm đôi”…

Sự phân hoá về chức năng giữa trăngnguyệt cho đến nay có thể xem là đã ổn định. Giờ đây, nguyệt chỉ còn xuất hiện hạn chế trong một số tổ hợp kiểu nhật nguyệt, nguyệt thực, bán nguyệt…, dùng làm yếu tố chỉ tháng trong các từ Hán Việt kiểu nguyệt san hoặc chỉ được dùng trong văn chương, như” Mây nước mê li cầm dưới nguyệt” (Bích Khê), “Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm” (Hàn Mặc Tử), hay “Từ khi trăng là nguyệt” (Trịnh Công Sơn)… Còn trăng thì có phạm vi sử dụng tuyệt đối, được dùng trong mọi trường hợp.

2. Như một sự tất yếu, trăng tự bao giờ đã là nguồn gợi hứng cho thơ.

Cũng là vầng trăng ấy thôi mà thi sĩ tha hồ liên tưởng. Sự liên tưởng càng độc đáo càng giàu tính sáng tạo, càng gây được nhiều rung động thẩm mĩ ở người đọc. Trong thơ Việt Nam hiện đại, có không ít câu thơ như vậy.

Với Hàn Mặc Tử “Không gian dày đặc toàn trăng cả. Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng” thì trăng cũng chính là nàng – cô gái đang xuân thì “lơi lả”: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn), “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò” (Huyền ảo)…

Với Lưu Trọng Lư, trăng lại gắn liền với hoài niệm, với cuộc đời thiếu phụ: “Vầng trăng từ độ lên ngôi. Năm năm bến cũ em ngôi quay tơ” (Vầng trăng), “Em không nghe mùa thu. Dưới trăng mờ thổn thức?” (Tiếng thu), “Còn đâu ánh trăng vàng. Mơ trên làn tóc rối?” (Còn chi nữa). Lưu Trọng Lư đã có một liên tưởng khá đẹp về trăng: “Đủng đỉnh chiếc thuyền con. Trăng lên đầy ngọn núi” (Trăng lên). Chiếc thuyền con hay mảnh trăng non, hay ấy là tâm hồn đang “đủng đỉnh”?

Trăng trong thơ Xuân Diệu thì “Ánh trăng tuôn đầy các lối đi” và cũng mang đầy dục cảm: “Trăng, vú mộng của muôn đời thi sĩ… Trăng, nguồn sương làm ướt cả gió hây. Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng!”… (Ca tụng).

Qua cái liên tưởng ấy, ta hiểu được tâm hồn, cá tính nhà thơ. Và cả tuổi tác nữa: “Trăng ơi… Từ đâu đến ? Hay từ một sân chơi. Trăng bay như quả bóng. Đứa nào đá lên trời” (Trần Đăng Khoa - Trăng ơi.. từ đâu đến ). Rõ ràng, phải là một cậu bé, và là một cậu bé hiếu động, thì mới có thể nghĩ được như thế về trăng.

Trăng qua sáng tạo của các nhà thơ – những bậc thầy về ngôn từ – là vậy, thoát ra khỏi cái ý nghĩa cũ càng để tạo nên nghĩa mới, bình diện nghĩa thứ hai của ngôn ngữ nghệ thuật.

(Bài đã in trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống

của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, số 9(59) năm 2000, tr. 3-4)

 
«Bắt đầuLùi12Tiếp theoCuối»

Trang 2 trong tổng số 2



bogddt 1275359403_Portfolio 1275359468_Book 1275359498_adept_installer  hanhchinh
Tuyển Sinh
 Tuyển Dụng
 Giáo Trình
 Thư Viện Phần Mềm
Góc Cao Học