Vietnamese-VNFrench (Fr)简体中文English (United Kingdom)

Trần Hoàng (Hoàng Trần)
XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN QUÝ VỊ ĐÃ ĐẾN VỚI WEBSITE...
 

 

 

Hiển thị tin focus

CHỢT NHỚ CÀ MAU  

(NHÂN FACEBOOK NHẮC NHỞ) Có lẽ không người Việt nào không ao ước được một lần đến mũi Cà Mau, địa đầu Tổ...
 

VCD ca khúc

Trực tuyến

Hiện có 1200 khách Trực tuyến

webmail

Truy cập

WebLinks

Tìm kiếm

Tháng Năm 2024
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
29 30 1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31 1 2

album_hinh

TƯ LIỆU VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC PDF. In Email
Thứ hai, 20 Tháng 2 2012 17:23

Chuyện tuyển dụng giáo viên đại học ở Mỹ

TTCT - Đại học công lập West Virginia không thuộc nhóm 100 trường hàng đầu nước Mỹ và nằm ở tiểu bang nghèo thứ hai nước Mỹ, tiểu bang West Virginia . Có thể hình dung đây là một trường địa phương như Đại học An Giang của Việt Nam .

Mùa thu năm học 2008, khoa báo chí thông báo tuyển dụng một giáo viên dạy ngành PR (quan hệ công chúng), bộ phận thư ký bắt đầu nhận hồ sơ ứng viên từ khắp các tiểu bang trong nước, thậm chí từ Kuwait và một số nước châu Âu.

Sau khi tổng hợp, có 320 hồ sơ, trong đó có một ứng viên Việt Nam gửi đến ứng thí. Tôi được giáo sư giao nhiệm vụ gửi thư và email thông báo đến từng người. Các ứng viên sẽ sắp xếp thời gian đến thăm trường, thuyết trình về một vấn đề chuyên môn mình quan tâm trước các giáo viên, sinh viên, nghiên cứu sinh và trả lời các câu hỏi. Người giáo viên tương lai đó sẽ thể hiện hết bản lĩnh của mình: sự lưu loát trong trình bày, thân thiện với khán giả trong và sau buổi nói chuyện. Nhiều giáo viên và sinh viên đã nán lại rất lâu đặt câu hỏi, bày tỏ sự quan tâm của mình với những bài thuyết trình họ quan tâm.

Chỉ tuyển một người, nhưng trường đã làm việc thật vất vả để có người tốt nhất - vì họ biết người này sẽ mang lại lợi ích cho sinh viên và uy tín cho nhà trường. Có lẽ vì thế nên giáo sư không về hưu, nhiều người 76 tuổi, đau ốm nhưng vẫn chống gậy đến trường giảng dạy. Một ngày còn đi dạy là một ngày họ còn đúng giờ, ân cần và luôn là người cuối cùng ra khỏi lớp. Hằng năm, sinh viên có bình bầu giáo viên của năm để vinh danh những người thầy tận tụy. Giáo sư của tôi đã nhận danh hiệu này cách đây năm năm lúc 71 tuổi.

Tuyển dụng giảng viên đại học ở ta tuy không phải thi công chức nhưng vẫn nặng nề “xin cho” do phụ thuộc vào phòng tổ chức nhân sự hay phòng tổ chức hành chính. Số sinh viên đại học được tuyển dụng nhiều hơn số thạc sĩ và tiến sĩ. Dùng sinh viên để dạy lại sinh viên, giống như vừa chạy vừa mặc quần áo, là một thiệt thòi kép cho uy tín nhà trường, người dạy và nhất là sinh viên.

HỒNG VÂN
(West Virginia, Hoa Kỳ)

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, chủ nhật, 18/01/2009, 06:21 (GMT+7)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=298054&ChannelID=13

Tiêu chí đề bạt chức danh giáo sư

TTCT - Chính phủ vừa ban hành tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh giáo sư. Dư luận xung quanh các tiêu chuẩn này vẫn còn râm ran, cho rằng các tiêu chuẩn mới về đề bạt chức danh giáo sư ở nước ta vẫn chưa hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.

Trong bài này tôi muốn trình bày một vài kinh nghiệm từ Úc để tham khảo và hi vọng sẽ góp phần nâng cao sự hội nhập quốc tế của ngành giáo dục nước ta.

Các đại học ở Úc có bốn chức danh khoa bảng: lecturer (giảng viên), senior lecturer (giảng viên cao cấp), associate professor (phó giáo sư) và professor (giáo sư). Các đại học Mỹ lại có đến ba chức danh professor: assistant professor, associate professor và professor. Chữ assistant professor rất khó dịch sang tiếng Việt, vì tuy mang danh là “assistant professor” (phụ trợ) nhưng những người có chức danh này chẳng phụ tá cho ai cả mà đã là một nhà nghiên cứu độc lập. Ở cả hai hệ thống, professor là chức danh cao nhất trong hệ thống học hàm đại học. Ở Úc cũng như ở Mỹ, khi một người có chức vụ (position) assistant professor hay associate professor hoặc professor thì chức danh (title) thường vẫn là professor.

Các trường đại học Úc và Mỹ đề bạt các chức danh này dựa theo ngạch và những tiêu chí cụ thể, tiêu chuẩn rất khác nhau. Ở đây chỉ bàn về hai chức danh phó giáo sư và giáo sư (gọi chung là giáo sư).

Quy trình

Quy trình đề bạt nói chung có thể tóm gọn trong ba bước chính:

Ứng viên phải soạn một đơn xin đề bạt. Trong đơn này ứng viên phải giải trình thành tích khoa học của mình một cách cụ thể. Cụ thể ở đây có nghĩa là phải trình bày những số liệu, biểu đồ, phân tích nhằm thuyết phục hội đồng khoa bảng rằng ứng viên đạt tiêu chuẩn của một giáo sư. Một điều rất quan trọng là ứng viên phải chỉ ra được mình tương đương với ai trên thế giới. Nếu ứng viên xin đề bạt chức danh giáo sư thì phải chỉ ra mình đã tương đương với người được công nhận chức danh giáo sư trên thế giới.

Bình duyệt đơn được thực hiện qua hai phía: cá nhân và đại học. Về phía cá nhân, ứng viên có quyền chọn bốn người bình duyệt (referee) cho đơn mình và trường đại học có trách nhiệm phải gửi hồ sơ đến bốn người bình duyệt này. Bốn người này có thể là đồng nghiệp của ứng viên và cũng có thể là người nước ngoài hay ngoài trường đại học. Về phía đại học, ứng viên phải đề cử 4-6 người bình duyệt cho trường đại học chọn. Dựa vào danh sách này, hội đồng khoa bảng sẽ chọn hai hoặc ba người bình duyệt hồ sơ. Ứng viên không biết hội đồng sẽ chọn ai trong danh sách. Trong phần lớn trường hợp, hội đồng chỉ chọn các nhà khoa học nước ngoài, ít khi chọn người trong nước.

Mỗi người bình duyệt sẽ viết một báo cáo đánh giá ứng viên dựa vào các tiêu chuẩn (nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, phục vụ) và tiêu chí (trung bình, giỏi, xuất sắc, nổi trội) mà trường đại học đưa ra. Một trong những điểm mà trường yêu cầu người bình duyệt phải chỉ ra được là ứng viên tương đương với ai (cụ thể là giáo sư nào, tên tuổi, ở đâu, địa chỉ) trong ngành trên thế giới. Đây cũng là cách trường muốn kiểm tra và so sánh thêm thành tích khoa học của ứng viên. Đến phần cuối của báo cáo bình duyệt, hội đồng khoa bảng yêu cầu người bình duyệt phải xếp hạng ứng viên vào hạng nào trên thế giới (chuyên ngành): top 1%, 5%, 10% hay 20%.

Sau khi nhận được các báo cáo này, hội đồng khoa bảng sẽ tổ chức một buổi phỏng vấn ứng viên. Sau khi phỏng vấn họ sẽ viết một đề nghị lên hiệu trưởng trường đại học để chính thức công bố kết quả. Nếu thất bại (không được đề bạt), ứng viên có quyền khiếu nại và yêu cầu đánh giá lại. Trong trường hợp này (hiếm xảy ra), hội đồng khoa bảng sẽ chuyển hồ sơ của ứng viên đến một hội đồng khác mà trong thực tế là một hội đồng khoa bảng mới để xem xét hồ sơ.

Ngạch đề bạt

Ở Úc, các đại học đề bạt giáo sư theo hai ngạch: nghiên cứu khoa học (research) và giảng dạy (teaching). Ứng viên phải chọn ngạch mà mình muốn đề bạt. Chẳng hạn công việc của ứng viên phần lớn là nghiên cứu khoa học và ít giảng dạy nên ứng viên chỉ có thể chọn ngạch nghiên cứu; nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì chắc chắn không đủ tiêu chuẩn để được đề bạt chức danh giáo sư.

Tiêu chí

Bất kể ứng viên chọn ngạch nghiên cứu hay giảng dạy, ứng viên sẽ được xét dựa vào bốn tiêu chí sau: thành tựu nghiên cứu khoa học (research output), lãnh đạo (leadership), giảng dạy (teaching) và phục vụ (services). Cố nhiên, nếu ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì hội đồng khoa bảng sẽ đặt nặng tiêu chí nghiên cứu hơn ba tiêu chí kia. Tương tự, nếu ứng viên chọn ngạch giảng dạy, hội đồng khoa bảng vẫn phải xem xét thành tựu nghiên cứu của ứng viên chứ không phải chỉ một tiêu chí. Điều này có nghĩa là một giáo sư phải đáp ứng tất cả bốn tiêu chí, nhưng tiêu chuẩn thì khác nhau cho từng tiêu chí mà ứng viên chọn ngạch được đề bạt.

Không phải chỉ công bố một công trình tuyệt vời nào đó là tự động có được chức danh giáo sư. Ở Úc và Mỹ tôi biết nhiều người trẻ có những công trình trên các tập san danh tiếng như Science, Nature, Cell... nhưng vẫn chưa được đề bạt giáo sư.

Nghiên cứu khoa học ở đây bao gồm số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã công bố trên các tập san quốc tế. Ngoài ra, các bằng sáng chế (patents) cũng được xếp trong tiêu chí này. Hội đồng khoa bảng dựa vào những chỉ số như hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF) của tập san và chỉ số H của cá nhân ứng viên. Không có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung hội đồng chú ý đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên ngành. Chỉ số H rất quan trọng, vì đây là chỉ số quyết định một phần sự thành bại của ứng viên. Các trường đại học danh tiếng lớn ở Mỹ thường đòi hỏi ứng viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt chức danh professor.

Không có ngưỡng cụ thể là phải có bao nhiêu bằng sáng chế để được đề bạt, nhưng hội đồng khoa bảng rất chú ý đến những nghiên cứu làm thay đổi định hướng của chuyên ngành, những nghiên cứu mở ra một hướng đi mới cho khoa học, những nghiên cứu mà kết quả được ứng dụng rộng rãi và đem lại lợi ích cho xã hội.

Ngoài ra, số lượng công trình mà ứng viên chủ trì và giá trị tài trợ mà ứng viên thu hút từ các nguồn khác nhau cũng được xem là một chỉ tiêu về thành tựu nghiên cứu. Theo một quy ước bất thành văn, ở cấp giáo sư (ngành khoa học thực nghiệm), người ta kỳ vọng ứng viên phải thu hút được trên 2 triệu đôla cho nghiên cứu.

Giảng dạy và đào tạo (teaching and mentorship) là những chỉ tiêu về số giáo trình mà ứng viên thiết kế và giảng dạy. Ứng viên phải trình bày rất chi tiết về số sinh viên, đánh giá của sinh viên ra sao và thành tựu trong giảng dạy. Có ứng viên đem cả băng video và DVD để chứng minh khả năng giảng dạy của mình cho hội đồng khoa bảng xem xét.

Đối với các ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì giảng dạy chính là số sinh viên cấp thạc sĩ và tiến sĩ mà ứng viên đã hướng dẫn thành công. Những sinh viên này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp. Ngoài ra, ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đến “đầu quân” làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc này hiện nay như thế nào. Trong phần này, ứng viên cũng có thể viết về những khóa học ngắn hạn hay những seminar mang tính giáo dục cho đồng nghiệp mà ứng viên đã thực hiện.

Lãnh đạo không phải là lãnh đạo hành chính mà là đi đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu. Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời viết xã luận (editorial), bình luận (commentary), bài tổng quan (invited review), được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn mang tầm quốc tế (còn gọi là invited lecture, keynote lecture...) mà ban tổ chức tài trợ hoàn toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị, đóng vai trò chủ tọa hội nghị...

Phục vụ ở đây là phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng. Hội đồng thường xem xét những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản biện, bình duyệt (referee hay reviewer), hay cao hơn là được mời làm thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn nữa là đóng vai trò tổng biên tập và phó tổng biên tập của các tập san khoa học quốc tế. Phục vụ trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng. Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạt của đồng nghiệp nước ngoài.

Hội đồng còn xem xét đến những phục vụ cho cộng đồng qua những bài viết trên báo chí đại chúng, những bài viết trên các tạp chí khoa học phổ thông, những ý kiến liên quan đến xã hội hay cố vấn cho nhà nước.

Tiêu chuẩn

Mỗi tiêu chí được đánh giá bằng bốn tiêu chuẩn như sau: trung bình, trên trung bình, xuất sắc và nổi trội. Trung bình có nghĩa là đóng góp ở mức độ kỳ vọng của chức vụ hiện tại, tức là nằm trong top 50%. Trên trung bình là đóng góp ở mức trên những gì kỳ vọng trong chức danh hiện hành, tính theo hạng thì mức độ này là top 30%. Xuất sắc là đóng góp nằm vào top 10% của chức vụ hiện hành. Còn nổi trội là những đóng góp đem lại tên tuổi cho trường đại học, những đóng góp thuộc vào hàng top 5% của chuyên ngành.

Do đó, nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là nghiên cứu thì hội đồng khoa bảng đòi hỏi ứng viên phải thuộc hạng xuất sắc (outstanding) và nổi trội trong nghiên cứu, và trên trung bình ở các tiêu chí lãnh đạo, giảng dạy và phục vụ. Nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì phải đáp ứng tiêu chuẩn giảng dạy xuất sắc trở lên, nhưng các tiêu chí nghiên cứu, lãnh đạo và phục vụ thì trung bình hay trên trung bình cũng được.

Và những kinh nghiệm

Đối chiếu những tiêu chí và tiêu chuẩn này với tiêu chuẩn của Việt Nam tôi thấy Bộ GD-ĐT cũng có cố gắng làm theo nước ngoài, nhưng... chẳng giống ai. Những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố không phân biệt được ngạch đề bạt (giảng dạy và nghiên cứu). Ngoài ra, những tiêu chuẩn rất phức tạp, máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm” rất phi khoa học. Tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao tiếp”.

Nếu những gì tôi trình bày trên đây cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm hay bài học gì thì tôi nghĩ đến những kinh nghiệm và bài học sau đây:

Thứ nhất là nên phân chia ngạch đề bạt. Ở nước ta có nhiều người mà nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học. Do đó cần phải có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy, nghiên cứu, thậm chí phục vụ. Thật vậy, có người tuy không giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lý, thì cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ. Ở Trường UNSW (Úc) có người từng là chính trị gia, nhưng vì có nhiều đóng góp cho ngành y tế cộng đồng nên cũng được phong giáo sư y khoa.

Thứ hai là không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu “cân đo đong đếm”. Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những điểm cụ thể mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.

Thứ ba là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Không như ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, ở nhiều trường tại Úc và Mỹ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lý đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên. Ngoài ra, việc để đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt.

Thứ tư là tính minh bạch. Tất cả chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên Internet. Ngoài ra, danh sách những người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công bố cho ứng viên biết trước. Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học... Tính minh bạch còn thể hiện qua quy định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp. Ngoài ra phải có cơ chế để ứng viên khiếu nại nếu đơn xin đề bạt không thành công.

Cố nhiên, tình hình thực tế ở nước ta không thể ứng dụng các tiêu chuẩn Âu - Mỹ để đề bạt giáo sư, nhưng tôi nghĩ có thể dựa vào các tiêu chí quốc tế như là một bước đầu trong quá trình hội nhập quốc tế.

NGUYỄN VĂN TUẤN (*)

______________

(*) Tác giả là giáo sư y khoa thuộc Đại học New South Wales (Úc).

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, thứ hai, 19/01/2009, 06:01 (GMT+7)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=298051&ChannelID=119

 

 



bogddt 1275359403_Portfolio 1275359468_Book 1275359498_adept_installer  hanhchinh
Tuyển Sinh
 Tuyển Dụng
 Giáo Trình
 Thư Viện Phần Mềm
Góc Cao Học