Vietnamese-VNFrench (Fr)简体中文English (United Kingdom)

Khoa Lịch Sử
Bạn biết quá khứ, bạn hiểu hiện tại, bạn tiên đoán tương lai
 

 
Nhã nhạc cung đình Huế PDF. In Email
Thứ tư, 15 Tháng 12 2010 15:11
Chỉ mục bài viết
Nhã nhạc cung đình Huế
Trang 2
Tất cả các trang


Là một sáng tạo đặc biệt, mang âm hưởng của âm nhạc dân gian Việt Nam, có tính chuyên nghiệp và bác học cao, Nhã nhạc cung đình Huế mang một âm điệu đặc trưng, thể hiện phong cách, tâm hồn, bản sắc Việt Nam nói chung và Huế nói riêng. Tháng 11 năm 2003, Nhã nhạc đã được UNESCO ghi tên vào danh mục Các Kiệt tác Di sản phi vật thể của nhân loại.

http://hoisuhoc.vn/img_upload/img-news/Nha%20nhac%20cung%20dinh%20Hue.jpg

Âm nhạc cung đình Việt có nguồn gốc lâu đời trong nền văn hoá, lịch sử của dân tộc.

Sau thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm, vào đầu thế kỷ X, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập với sự thiết lập nhà nước quân chủ, sự hình thành giai cấp quý tộc, từ đó dẫn đến sự hình thành và phát triển một hình thức sinh hoạt âm nhạc riêng phục vụ cho lễ nghi của triều đình và nhu cầu sinh hoạt của tầng lớp quý tộc.

Từ thời nhà Lý (1010- 1225), triều đình đã cho thành lập một tổ chức ca múa nhạc cung đình với quy mô lên đến hơn 100 người. Được xây dựng trên cơ sở truyền thống văn hóa văn nghệ dân gian lâu đời của người Việt cổ, sinh hoạt ca múa nhạc trong cung đình thời Lý và sau đó là thời Trần (1225 - 1400) đã trở nên khá phong phú về các loại hình và bài bản.

Lúc này, cuộc sống giữa quý tộc và dân thường vẫn khá gần gũi nên các hình thức ca múa nhạc trong cung đình vẫn còn bám rễ và giữ mối quan hệ khăng khít với dòng âm nhạc dân gian. Mặt khác, các tài liệu lịch sử và khảo cổ cho thấy âm nhạc cung đình Việt Nam thời kỳ này đã chịu một số ảnh hưởng nhất định của hai nền văn hóa lân cận là Trung Hoa và Chiêm Thành. Càng về sau, sự phân hoá giai cấp trong xã hội càng trở nên rõ rệt, mức độ chính quy hóa về mặt tổ chức trong cung đình Việt Nam ngày càng cao, dẫn đến sự phân biệt khắt khe hơn trong việc sử dụng các loại dàn nhạc trong cung đình và ngoài dân gian.

Dưới thời nhà Trần, cùng với sự xuất hiện của Đại nhạc và Tiểu nhạc triều đình quy định rõ Đại nhạc chỉ dành riêng cho vua, còn hoàng gia và các quan lớn khi nào có tế lễ lớn mới được sử dụng; và với Tiểu nhạc thì kẻ trên người dưới đều dùng được. Đại nhạc và Tiểu nhạc thời kỳ này có biên chế như sau: Đại nhạc gồm có: trống cơm, ống kèn, tiểu quản, xập xoã, trống lớn; Tiểu nhạc gồm có: đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thất huyền, đàn song huyền, địch, sái, kèn và quản.

Bước sang thế kỷ XV, âm nhạc cung đình Việt có những bước chuyển biến đáng kể. Thời đại nhà Hồ (1400 - 1407) dù tồn tại trong thời gian rất ngắn nhưng cũng đã tiến hành nhiều cuộc cải cách về văn hóa, kinh tế, xã hội. Đối với âm nhạc cung đình, nhà Hồ đã chính thức cho du nhập Nhã nhạc cùng một số nguyên tắc của nó từ Trung Hoa. Nhã nhạc thời kỳ này có sử dụng múa văn và múa võ. Đây được coi là một trong những nguyên tắc của Nhã nhạc.

Đến thời nhà Lê (1427 - 1788), Nhã nhạc hoàn thiện với tư cách là một điển chế. Thời kỳ này, Nhã nhạc được phát triển như là loại nhạc chính thống, một thứ tài sản riêng của triều đình, đối lập với nó là Tục nhạc, tức là dòng âm nhạc dân gian. Như vậy, trong thời kỳ này, âm nhạc cung đình Việt đã hình thành một dòng âm nhạc chính thống: quốc nhạc cùng song song với dòng âm nhạc dân gian cùng tồn tại và phát triển.

Về quy mô tổ chức, âm nhạc cung đình Việt dưới thời nhà Lê đã trở nên hoàn thiện và chặt chẽ. Các tổ chức âm nhạc được thành lập, đặt dưới sự cai quản của các nhạc quan. Thời kỳ này, triều đình định ra các loại nhạc như sau: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Đại Yến nhạc, Cung trung nhạc phỏng theo nguyên tắc Nhã nhạc nhà Minh của Trung Hoa.

Triều đình nhà Lê cho thành lập 2 tổ chức dàn nhạc là Đường thượng chi nhạc và Đường hạ chi nhạc với biên chế như sau: Đường thượng chi nhạc gồm: trống treo lớn, Biên khánh, Biên chung, đàn Cầm, đàn Sắt, Sinh, Tiêu, Quản, Thược, Chúc, Ngữ, Huân, Trì; Đường hạ chi nhạc gồm có phương hướng treo, Không hầu, Tỳ Bà, Quản cổ, Quản địch.

Tuy nhiên, sang thế kỷ XVI, XVII và đặc biệt vào giai đoạn cuối triều Lê, âm nhạc cung đình dần dần đi vào suy thoái. Biên chế các dàn nhạc bị thu hẹp, Nhã nhạc và Tục nhạc không còn phân biệt rõ rệt như trước nữa, thậm chí một số dàn nhạc dân gian còn được đưa vào chơi trong cung đình.

Khi triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) lên kế vị, tình hình trên được cải thiện. Vào nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định đã tạo điều kiện cho văn hoá nghệ thuật phát triển, đặc biệt dưới triều vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883).

Âm nhạc cung đình được nhà vua coi trọng và giao cho Bộ Lễ tổ chức nhiều loại âm nhạc cung đình. Bấy giờ triều đình quy định 7 thể loại âm nhạc: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung nhạc.

Sử dụng trong các loại nhạc này là do các quan trong bộ Lễ biên soạn, có nội dung phù hợp với từng cuộc lễ của triều đình. Chẳng hạn, trong lễ Tế giao, có 10 nhạc chương mang chữ Thành (nghĩa là: nên việc, thành công, thành tựu) bao gồm: An thành tri chương (khúc hát cầu mong mọi sự được yên ổn và thành công) được diễn tấu trong lễ rước thần về; Triệu Thành tri chương (khúc hát cầu mong sự khởi đầu tốt đẹp) được diễn tấu trong lễ dâng ngọc lụa; Đăng thành chi chương (khúc hát cầu mong sự dâng hiến thành công): lễ dâng vật tế (mâm thịt tế); Mỹ thành chi trương (khúc hát cầu mong điềm lành): Á hiến lễ (tuần rượu thứ hai); Vĩnh Thành chi chương (khúc hát cầu mong sự thành công lâu dài): chung hiến lễ (tuần rượu thứ ba); Doãn thành chi chương (khúc hát cầu mong sự bằng lòng của thần): tấu khi hạ cỗ; Hy thành chi chương (Khúa hát cầu mong thần phù hộ, giúp đỡ): tấu khi tiễn thần đi; Hựu Thành chi chương (khúc hát cầu mong thần phù hộ, giúp đỡ): tấu khi đốt đồ cúng; Khánh thành chi chương (khúc hát bày tỏ niềm vui mừng sau sự thành công của cuộc tế lễ): tấu khi vua về cung. Các nhạc chương được hát lên với sự phụ hoạ của dàn nhạc, cùng sự tham gia của múa Bát dật (gồm 64 văn sinh và 64 võ sinh), tạo nên một khung cảnh hoành tráng, trang trọng.

Tương tự, trong lễ tế Xã tắc có 7 nhạc chương mang chữ Hoà (nghĩa là sự hài hoà- harmony), tế Lịch đại đế vương có 6 nhạc chương mang chữ Huy (nghĩa là sự tốt lành), tế văn miếu có 6 nhạc chương mang chữ Văn (nghĩa là có học vấn- educated), lễ Đại triều dùng 5 bài mang chữ Bình (nghĩa là sự hòa bình- Peace), Lễ vạn thọ dùng 7 bài mang chữ Thọ (nghĩa là sống lâu- longevity), lễ Đại Yến dùng 5 bài mang chữ Phúc (nghĩa là may mắn- happiness) vv...

Bên cạnh số lượng phong phú các nhạc chương, có thể nói đây còn là thời điểm nở rộ của các dàn nhạc cung đình. So với các thời đại trước, triều đình Nguyễn đã cho bổ sung thêm nhiều loại dàn nhạc như Nhã nhạc, Huyền nhạc, Ti Trúc Tế nhạc, Ty chung, Ty Khánh, Ty Cổ. Biên chế các dàn nhạc cũng được mở rộng hơn trước, một số quy mô rất lớn.

Cụ thể các dàn nhạc thời kỳ này có biên chế như sau (Theo Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội diễn Sư lệ giữa thế kỷ XIX): Huyền nhạc: gồm 26 nhạc cụ: 1 kiến cổ, 1 bác chung, 1 đặc khánh, 1 bộ biên chung, 1bộ biên khánh, 1 bác phụ, 1 chúc, 1 trống, 2 đàn Cầm, 2 đàn Sắt, 2 bài tiêu, 2 tiêu, 2 địch, 2 Sinh, 2 Huân, 2 Trì, 2 Phách bản. Đại nhạc gồm 42 nhạc cụ: 20 trống, 8 minh già, 4 câu giốc (tù và bằng sừng trâu), 4 sa la, 4 tiểu sa, 2 hải loa (tù và bằng ốc biển). Nhã nhạc gồm 8 nhạc cụ: 1 trống bản, 1 tỳ bà, 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 2 địch, 1 tam âm, 1 phách tiền. Ti trúc tế nhạc: gồm 8 ca sinh và 8 nhạc công. Ty chung- Ty khánh: gồm 6 nhạc công chơi các nhạc cụ: bác chung, đặc khánh, biên chung, biên khánh. Ty cổ: gồm 7 nhạc công.

Nhã nhạc trong truyền thống văn hóa của cộng đồng có liên quan (cộng đồng Huế):

Trước khi trở thành kinh đô của Việt , Huế đã từng là Thủ phủ của Đàng Trong (phần đất phía của Việt ) trong suốt hơn 200 năm. Lúc bấy giờ, văn hóa Huế vữa kế thừa văn hóa Thăng Long, tiếp thu văn hoá miền Trung và bên ngoài để sáng tạo nên một nền văn hóa - văn hóa Phú Xuân.

Trong giai đoạn này, giai cấp quý tộc đã manh nha hình thành, dẫn đến sự xuất hiện của một số hình thức ca múa nhạc trong các dinh phủ để phục vụ cho nhu cầu giải trí của giới quý tộc. Nhiều điệu múa cung đình hiện còn như Nữ tướng xuất quân, Đấu chiến thắng Phật, Tam Quốc- Tây Du... đã xuất hiện ngay từ thời này.

Nghệ thuật Tuồng cũng được giới quý tộc hết sức ưa chuộng, trong các dinh phủ đã cho thành lập những đội diễn gồm những diễn viên Tuồng chuyên nghiệp.

Tình trạng chính quy hoá, chuyên nghiệp hóa ngày càng cao này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hình thức âm nhạc cung đình Huế vào đầu thế kỷ XIX, khi Huế trở thành kinh đô của toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn.



 


 Đăng Nhập 




bogddt 1275359403_Portfolio 1275359468_Book 1275359498_adept_installer  hanhchinh
Tuyển Sinh
 Tuyển Dụng
 Giáo Trình
 Thư Viện Phần Mềm
Góc Cao Học